Mật Mã Maya Chương 21 - Part 02
Chương trước: Chương 21 - Part 01
Chương 21
Chúng tôi nối đuôi nhau xuống đồi, lọt vào một thung lũng tối đen nơi con sông cuộn chảy ào ào. Đoàn người đi chậm dần và tập họp lại gần nhau. Tôi là một “gói ngọc bích”, nghĩa là “người cần bảo vệ”, cho nên có tới năm k’iik vây kín lấy tôi, nhưng qua khe hở giữa họ, tôi vẫn còn thoáng thấy những căn lều của người chèo đò in bóng xuống một dải nước xám đục. Con sông này về sau sẽ có tên là Río Sebol, còn bây giờ, nó được gọi là Ka’nbe – Đường Vàng. Ở quãng này, sông rộng chưa đầy ba mươi sải tay, và chỉ cao hơn mức nước cạn vào mùa đông một chút, xem ra chỉ đủ cho rất ít thuyền bè qua lại, thế nhưng, bờ bên này neo tới gần bốn mươi chiếc thuyền mười người. Trong vòng chưa tới ba mươi phút, đám người hầu đã tháo dỡ xong đồ đạc trên xe cáng, bọc chúng vào những tấm vải tráng cao su và theo chỉ dẫn của những người lái đò, chất chúng xuống lòng thuyền. Không có lấy một ánh đuốc. Nhưng tôi đoán họ có thể làm xong việc này ngay cả khi mắt mũi bị bịt kín.
Đám phu khuân vác đập nát những chiếc xe cáng. Chúng tôi tháo dép xăng đan. Cá Sấu 12 dâng cúng một gói lễ vật ột tảng đá lớn được coi là nơi trú ngụ của uay của con sông. Những người chèo đò đỡ chúng tôi xuống thuyền. Các k’iik ngồi trên năm chiếc đi gần cuối, cách hai chiếc chặn hậu khoảng mười thân thuyền. Mỗi chiếc chở tám người, bốn k’iik và đầy tớ riêng của họ ngồi giữa chủ thuyền – hắn đứng trên một mảnh ván chìa ra trước mũi thuyền với một cây sào dài trong tay – và người đứng lái ở cuối thuyền. Họ xếp tôi ngồi trên chiếc thuyền áp chót, là vị trí an toàn nhất. Khi tôi bước vào, lòng thuyền lún xuống dưới chân tôi. Nó không được đóng bằng gỗ mà được đan, hay đúng hơn, được bó bằng thân sậy. Rất nhiều cảm giác thay đổi trạng thái khi bước xuống một không gian nổi bập bềnh với những định luật cơ học riêng. Chúng tôi tách bến bơi xuôi dòng. Những ngôi sao mờ dần khi mây kéo tới, và chúng tôi chìm trong bóng tối mờ ảo, có phần đáng sợ hơn. Tuy thế, những người lái đò vẫn không thắp ngọn đuốc mà họ thường cắm ở mũi thuyền, cứ dựa vào cảm giác và ánh le lói thi thoảng lóe lên từ những đám nấm gỗ phát sáng và những con đom đóm để chống thuyền lướt đi. Những cặp mắt sáng lóe chớp chớp giữa những thân cây vô hình, mắt khỉ, mắt gấu trúc, mắt cú, và người ta có thể tưởng tượng ra cả mắt báo nữa. Thuyền chúng tôi bơi qua những tiếng rột roạt khe khẽ nhưng râm ran, và tôi nhận ra đó là tiếng lũ sâu bướm đang nhai lá cây, qua những quãng phát ra âm thanh ken két chói tai của hàng trăm loài bọ cánh thẳng, át hết những tiếng động khác, rồi qua nơi bầy ễch ương nghiến răng, hệt như những chiếc máy kéo cổ lỗ sĩ chạy bằng dầu đi-ê-zen rít lên ầm ầm mà vẫn không khởi động được, thứ âm thanh này, trong ký ức thời thơ ấu của tôi, tức là của Jed, mang một thông điệp vô cùng hân hoan rằng “SẮP MƯA RỒI”, và nhắc đến chuyện này…
Chính nó rồi. Nó chính là thứ mà tôi cảm thấy thiêu thiếu khi ở đây cùng Marena vào năm 2012.
Chúng tôi không thể tuyệt chủng được, - tôi nghĩ thầm, - phải vậy không?
Cũng có thể đấy. Cái thứ PAH (Một nhóm chất độc gây ô nhiễm môi trường) ấy cũng độc lắm chứ chẳng phải vừa. Mẹ kiếp.
Ngay cả giữa những tiếng ồn này, đôi tai của Chacal vẫn nghe thấy điều gì đó không ổn. Có lẽ nó hơi quá ầm ĩ. Hoặc âm sắc không đúng. Hoặc do thiếu tiếng cú kêu. Loài cú khá tinh khôn. Chúng rất nhạy cảm với thời tiết, chúng biết vụ phun trào đã làm đảo lộn điều gì đó.
Các k’iik chắc cũng cảm nhận được điều ấy. Trong bước chân của họ có sự căng thẳng bất thường… và không chỉ với tôi. Cũng không chỉ vì căng thẳng chính trị. Ai nấy đều thực sự âu lo hơn bình thường. Vụ động đất khiến mọi sinh vật cũng lo lắng. Những cơn địa chấn! Vào thời này, chúng được coi là những con quái vật khổng lồ dưới lòng đất.
Khi dòng sông mở rộng hơn, chúng tôi gặp các đoàn thuyền khác, vài thuyền có thắp nến bấc ở đằng mũi, và trước lúc trời hửng sáng, chúng tôi đã hòa vào một dòng thuyền buôn tấp nập ngược xuôi. Chúng tôi bơi nhanh hơn và vượt vài tá thuyền khác. Thỉnh thoảng, tôi lại nghe tiếng Cá Sấu 12, ngồi trên chiếc thuyền gần đầu, quát những người đánh cá thu lưới ở giữa dòng lại. Trời vừa rạng là lúc Đường Vàng gặp Đường Xám – dòng sông sau này được gọi là Río San Diego – tại thành phố Quảng Trường Luôn ồn ã mà tàn tích của nó được biết đến với cái tên Tres Islas. Cũng như Tyre (Một thành phố của Libăng), đô thị nhỏ này phát triển quá mức, tràn ra cả ngoài bán đảo, những ngôi nhà mới xây vươn thẳng lên từ dưới mặt nước. Tôi mường tượng ra những đốm lửa không bao giờ tắt trên ô cửa cao của các kim tự tháp nhỏ và cảnh những người quét rác lui cui trên quảng trường chợ không một bóng cây, được thắp sáng bởi những ngọn đuốc treo cao hệt như đèn đường. Dưới ánh nắng ban ngày, nước có màu sắc và vẻ thô ráp như tấm vải lót sàn tã nát trên con tàu chiến, hai bên bờ nối tiếp những vườn cây ăn quả sapote (Từ trong tiếng Nahuatl dùng để chỉ chung các loài hoa quả như trứng gà, hồng xiêm và một số loài cây ăn trái bản địa Trung và Nam Mỹ khác) xanh non đơn điệu, xen lẫn các halach yotlel – những vựa thóc kê cao và giá phơi – nửa đóng nửa đan bằng cành cây. Đến giờ một-phần-mười-ba thứ hai trong ngày. Đường Vàng hòa vào một con sông rộng và chảy xiết hơn, sông Ayn Be – Đường Cá Sấu – sau này là sông Río Paisión. Xa xa thấp thoáng mộtt thành phố có tên Chakha’, nghĩa là “Nước Đỏ”, tức El Ceibal ngày nay. Vô số lâu đài và nhà kho một màu trắng xóa, nằm chen chúc trên một quả đồi hình khom khom, chẳng khác gì một đống đường thỏi chồng chất hỗn độn khiến người ta khó mà phân biệt được ngôi nào là xây, ngôi nào là đẽo thẳng vào đá nguyên khối. Thành phố biến mất khi con sông uốn khúc chạy về nam. Khi bắt đầu nghe thấy tiếng nước xiết sủi bọt phía trước, những người lái đò cho thuyền dừng lại bên một bờ sông được lát đá, một tốp phu dỡ đồ xuống, nâng những chiếc thuyền lên quá đầu và chạy theo con đường dọc bờ sông. Khi các phu kiệu nâng tôi lên và chạy theo họ, tôi thoáng nhìn thấy một thác nước giữa những túp lều và những ngôi nhà lớn có hàng cột, nó chảy thành từng dòng đều đặn một cách kỳ lạ trên những nề đá vôi được chạm khảm. Hun Xoc nói đó là tháp hiến tế mà những người bùn đã xây dựng vào mặt trời thứ ba. Chúng tôi lao nhanh qua một quãng nước xiết, đến khúc sông mà chúng tôi gọi là Đường Trắng Của Khỉ Rú Lớn, chính là Río Usumacinta ngày nay.
Người ta gọi Río Usumacinta là sông Nile của người Maya. Nhưng sông Nile chảy tương đối thẳng, qua những vùng sa mạc phẳng phiu và dâng lũ theo chu kỳ khá đều đặn. Trong khi đó, Usumacinta chảy vòng vèo quanh núi non, qua nhiều hang hẻm, sau đó mới mở rộng ra và chảy chậm lại khi băng qua vùng đất thấp, uốn thành những khúc dài. Dù vậy, ở một vùng đất không bánh xe, không ngựa, thậm chí không lạc đà như thế này, nó vẫn là lựa chọn duy nhất để chuyên chở.
Bình minh lại lên, chậm chạp ì ạch mãi với một màu tím hoa cà thẫm đục. Màu sắc đó có nghĩa rằng những đám mây trên đầu chúng tôi không phải là mây như ngày thường. Đó là tro từ núi lửa San Martín. Một-phần-mười-ba thứ hai, Pa’Chan – “Đổ Trời” – tức Yaxchilán, xuất hiện bên tay trái chúng tôi. Thành phố trải rộng trên một triền dốc nằm chính giữa điểm uốn khúc của con sông, vì vậy, giống như Constantinople, nó được nước vây kín ba mặt, mặt thư tư được củng cố vững chãi. Mặt tiền của các tòa lâu đài hướng ra sông để trưng ra sự giàu có của các thị tộc. Năm dãy bậc thang rộng chạy theo hình zích-zắc lên một vệ thành gồm năm kim tự tháp nằm trên đỉnh quả đồi lớn nhất. Vị trí này thật hoàn hảo bởi người lạ có thể lại gần, có thể đi thăm quan một vòng men theo khúc quanh nhưng không thể dễ dàng tấn công từ trên mặt nước. Nước ở quãng này chảy quá xiết để cập bờ. Ngay cả khi có chỗ cập bờ thuận tiện và nếu có người dám thử, họ vẫn có thể quăng lưới xuống nước, chặn hai đầu và nhốt những kẻ xâm nhập ở giữa.
Thuyền chúng tôi men theo đường cong cuối cùng của dãy đồi và trôi vào gầm halach be, cây cầu treo lớn dài sáu trăm feet, riêng nhịp ở giữa dài hai trăm lẻ ba feet, với hai trụ cầu hình vuông khổng lồ cao sáu mươi feet, bề ngang chân trụ rộng ba mươi sáu feet. Vào năm 664 này, nó là cây cầu treo dài nhất thế giới; và ở châu Âu không hề có một công trình nào dài đến vậy ãi đến năm 1377 khi người ta xây xong cây cầu Charles ở Prague. Ngay phía trước cầu, dọc bờ sông được lát đá, có một dãy bốn mươi tên tù trần trụi, vàng ệch, bị treo trên những cây sào dài nom hệt như bù nhìn giữ dưa. Khi đến gần, tôi mới nhìn rõ đó chỉ là những bộ da được nhồi căng lên, vẫn còn đầy đủ chân tay, nhưng đầu được làm giả, có lẽ bằng vỏ bầu, và chúng có màu vàng như vậy là do được tẩm nhựa cây. Chân tay của những cái xác căng mọng lên và mất hết đường nét, nhìn không khác gì cây xúc xích. Tôi đoán chúng được nhồi bằng phấn hoa ngô, Hun Xoc nói bốn trong số đó là các k’iik của thị tộc Dơi Quỷ ở Ix bị bắt sau một cuộc đột kích bất thành cách đây sáu năm. Trong lúc đó, chiếc thuyền dẫn đầu đoàn chúng tôi đã rẽ vào bờ, và một trong số các k’iik của Cá Sấu 12 nhảy lên. Hắn lội đến chỗ bờ đắp đất cao, leo ba bậc thang xếp bằng thân cây, chạy tới chỗ bốn anh bạn nhà Dơi Quỷ, thêm một gói đồ lễ của chúng tôi vào đống đồ lễ vật chất cao như núi dưới chân họ rồi quay lại, nhảy lên chiếc thuyền cuối cùng đúng lúc nó sắp bỏ lại hắn. Các k’iik khác huýt gió thật to để hoan hô tán thưởng. Cái đồ phô trương.
Khi chiếc thuyền chở tôi đi vào dưới gầm cầu, tôi thấy như có tuyết rơi xung quanh. Tôi ngẩng đầu lên. Quãng này, lòng cầu cao hơn đầu chúng tôi mười lăm feet và rộng mười feet, được giữ bởi một sợi chão đôi dày phải đến sáu inch. Một dãy đàn ông và một nhóm thiếu nữ quý tộc – điều này rất khác thường – đang đứng trên đó quan sát thuyền bè qua lại. Một cô gái khác lắc lắc chiếc giỏ trong tay, rải xuống những chiếc thuyền bơi qua bên dưới một thứ màu trắng cuốn theo gió thành một đường xoáy dài. Hun Xoc liều lĩnh nhoài người ra khỏi mép thuyền, bắt được một bông và ăn lấy may. Đó là bỏng ngô.
Bên tay phải chúng tôi, những tòa nhà lớn dần lên và rốt cuộc, tôi nhận ra chúng tôi đang nhìn thấy kẻ kình địch lớn nhất của Yaxchilán, thành phố Yokib’. Người ta còn gọi bằng cái tên “công chúa của các thành phố châu báu”, và rất lâu sau này, nó sẽ được gọi là Piedras Negras, Yokib’ có nghĩa là “Lối vào” hoặc “Ngưỡng cửa”, nơi được cho là có lối hang dẫn xuống thẳng sân bóng hông lớn của thế giới âm phủ Xib’alb’a. Màu của Yaxchilán là màu hồng đào, Ix – màu xanh ngọc bích, còn Yokib’ là màu vàng. Thực tế, cả thành phố này là một màu vàng rực gay gắt, gần giống hệt màu vàng cam Bloxx, lại được viền những dải màu đen khiến nó rất khó nhìn, ngay cả ở dưới ánh sáng nhợt màu tro, có độ khuyếch tán rộng như thế này; một thung lũng được họa theo hình khối với những ánh sáng bóng và nhoáng ướt như được họa bởi bàn tay của Bridget Riley (Họa sĩ người Anh, một trong những người đi tiên phong trong nghệ thuật ảo thị). Kim tự tháp lớn nhất tuyền một màu vàng, một bề mặt dốc nhô ra giữa khoảng sáng lập lòe, trên đó, những người thợ lui cui bò toài, dùng những mảnh giấy sáp ong dính như vữa xi măng để trát lại các bức tường. Tôi phỏng chừng lớp tường ngoài cùng của kim tự tháp được xây cách đây một k’atun, bằng vôi nghiền từ xương của hàng ngàn tù nhân họ bắt được khi làm cỏ tận gốc hai thành phố thù địch, tương tự Lâu Đài Máu Và Bùn ở Dahomey (Tức cộng hòa Benin, một nước thuộc châu Phi ngày nay). Tôi đếm được năm mươi tư cái đầu lâu bày ở cửa sông. Con số đó không nhiều nhặn gì, vả lại nhìn còn mới đến mức tôi đoán chúng được làm giả bằng gỗ. Nhưng, khi đi ngang qua, tôi mới thấy những cái cũ hơn, đặt trên các ngăn giá thấp hơn, đã nhăn nhúm lại. Như thế có nghĩa chúng là thật, nhưng đã được làm sạch, ngâm muối, căng trên khung bằng đất sét, phết dầu, trang điểm và thậm chí được che đậy khi trời mưa. Tên tuổi và ngày bị bắt của từng người được xăm trước trán, có lẽ từ lúc còn sống; chỗ miệng bị khâu kín được làm phồng lên sao cho giống với người sống thật; con ngươi được thay thế bằng đá trắng tinh, vì vậy, nom cứ như chúng đang nhìn trừng trừng vào anh vậy. Có lẽ óc, lưỡi và các bộ phận khác đã bị rút ra ngoài qua đỉnh đầu, để chúng khỏi thối rữa, ít ra nhìn chúng cũng không rúm ró như cái đầu ở Yaxchilán, hay như những cái họ vứt cho giòi bọ ăn ở Temple Bar (Khu vực được bảo tồn từ thời trung cổ ở thành Dublin, Ireland) và cứ nằm phơi ở đấy cho tới tận năm 1746.
Ngoài những lúc lên bờ đi bộ qua những đoạn không bơi được, chúng tôi không hề rời thuyền nghỉ đỗ, dù chỉ lấy nước uống. Các thuyền bán hàng rong bơi lại gần, chúng tôi mua những thứ cần thiết và lại đi. Nước tiểu được bọn hầu hót phân đổ ra ngoài thuyền còn phân thì cho lũ chó ăn. Chúng có vẻ thích món ăn này. Có lẽ chúng thuộc một loài đặc biệt, có thói quen lạ bẩm sinh. Tiếp đó, cứt chó lại được bọc vào lá tai voi và chuyển sang thuyền của những gã làm nghề hót phân trên sông, chúng luôn được họ tống bởi hàng đám mây ruồi. Mấy tên lính lưu tinh cứ phải chạy hộc tốc lên bờ, trước đoàn thuyền, để đảm bảo luôn có một tốp phu trực sẵn ở đoạn nước xiết tiếp theo. Ở thế kỷ hai mốt, người ta lúc nào cũng ca cẩm, nào là “ôi chao, chẳng còn lấy một tí thì giờ”, nào là “cuộc sống hiện đại nhanh đến chóng cả mặt”, nào là “không như những ngày xưa, khi chưa có điện thoại di động, chưa có TV”, vân vân và vân vân. Nhưng nếu tôi có học được điều gì ở quá khứ thì đó là ở đây người ta cũng không thư thả gì hơn. Kể cả anh có là cô tiểu thư quý tộc hoang tưởng, anh cũng luôn phải vội vã chuẩn bị để sẵn sàng trước khi ai đó đưa anh đi chơi. Hạn chót luôn là hạn chót. Như tôi nghĩ tôi đã nhắc đến một đoạn nào đó, rằng vào ngày mồng 1 tháng 5 theo cách tính của chúng ta sẽ có hiện tượng nhật thực. Sọ Đá Quý 2 nói những người Teotihuacán có thể sẽ phong tỏa biên giới từ trước đó năm ngày, vào ngày Chết 6, Nai đực 14, tức là chỉ còn hai mươi ngày tính từ hôm nay. Vào ngày đó, toàn thể dân chúng của Teotihuacán Lớn sẽ bắt đầu cử hành việc “im lặng”, không ai được vào hoặc ra khỏi thung lũng cho đến khi mặt trời quay trở lại chu kỳ bình thường của nó. Hóa ra, trái với quan niệm thông thường, nhật thực không phải hiện tượng chỉ có giới quý tộc được biết. Mệnh lệnh được ban ra, và khi ngày đó tới gần, mọi người dân cùng tổ tiên của mình đều sẵn sàng thực hiện nghi lễ. Thành phố sẽ đóng băng. Dịp này giống một lễ vọng hoặc nghi thức canh đêm hơn là lễ hội.
Xem tiếp: Chương 21 - Part 03