Côn Luân Vạn Vật Quy Tàng (2)
Chương trước: Vạn Vật Quy Tàng
Chỉ thấy hai người một lừa tiến về đây càng lúc càng nhanh, chẳng bao lâu đã ở ngay phía trước, đột nhiên dừng lại, đạo cô áo xám nhìn qua chúng nhân, sắc mặt kì dị. Minh Quy cười nói:
-Hai vị đạo trưởng, ở đây đang có chuyện, các vị cứ tránh đi thì tốt hơn.
Đạo cô áo xám hai mày duỗi ra, cười nói:
-Đã là như vậy, bần đạo đành lui bước vậy…”
A Tuyết trông thấy đạo cô áo xám, không hiểu vì sao, cảm thấy vô cùng thân thiết, bất chợt trong lòng rất mừng, chợt gọi:
-Đạo trưởng, người đừng đi, họ… họ muốn giết bọn con…
Đạo cô áo xám đôi mày đẹp nhướng lên, ngạc nhiên nói:
-Cô nương nói thật à.”
A Tuyết hai mắt ửng đỏ, gật đầu lia lịa.
Đạo cô áo xám cau mày nói:
-Sát nhân chẳng phải chuyện tốt.
Rồi chuyển thân hướng Minh, Hàn hai người cúi chào rồi nói:
-Bọn chúng nếu có đắc tội, bần đạo xin thay chúng nhận lỗi. Mong hai vị đại nhân đại lượng, bỏ qua chuyện này.
Hàn Ngưng Tử khinh khỉnh cười, thở dài:
-Thật là đáng tiếc, bổn tọa đây khí lượng nhỏ nhen, đến một hạt cát chắc gì đã buông tha.
Đạo cô áo xám thần sắc biến đổi, lông mày co lại trầm ngâm, bất ngờ một đạo hoàng ảnh lóe lên bên cạnh, Minh Quy song trảo đã vung tới, đạo cô áo xám không né tránh, tay áo phẩy qua, quét ngang hơn một xích.
Đầu ngón tay Minh Quy bị tay áo đạo cô phất ngang, thì trở nên tê dại, không ngăn được trong lòng phát rét, đành liếc sang Hàn Ngưng Tử, ra ý cầu viện, một trái một phải cùng hướng đạo cô mà tiến tới.
Lương Tiêu thấy thế liền kêu lên:
-Lấy nhiều đánh ít ư?
Rồi bạt kiếm phóng tới, muốn giúp một tay. Lại thấy đạo cô áo xám từ trên lưng xuất ra một cây trường tiêu hai xích bằng trúc, tùy ý thủ thế, khẽ cười khổ, than:
-Bần đạo bản lĩnh thấp kém, thỉnh mong nhị vị chỉ giáo.
Minh Quy trừng mắt nhìn cây trúc tiêu trong tay bà, ánh mắt lộ xuất những tia kì dị, đột nhiên toàn thân chấn động, nhìn chằm chằm đạo cô, rít lên:
-Ngươi… là ngươi?
Đạo cô áo xám liếc nhìn lão, thần sắc ảm đạm, thở dài:
-Minh tiên sinh đúng là nhãn quang như thần, chỉ mới liếc sơ, đã nhận ra bần đạo rồi?
Minh Quy thần khí cổ quái, lúc thì sầu não, lúc thì sợ hãi, lẩm bẩm:
-Ngươi… ngươi là Lâm…
Vừa dứt lời, lông mày bỗng nhíu chặt, nhìn trái ngó phải.
Đạo cô áo xám lắc đầu nói:
-Túc hạ không cần nhọc tâm, người chẳng có ở đây.
Minh Quy nghe được liền nghĩ:
-Lão tử chẳng phải đứa trẻ lên ba, làm sao mắc lừa ngươi được, hừ, ngươi nói không có, ta lại cho là có. Lão phu vũ công chưa tăng tiến, tạm thời không nên cùng hắn đối địch.
Lão nghĩ đến đây, liền ra quyết định, ngó vào khu rừng, cao giọng nói,
-Túc hạ chẳng muốn lộ mặt, Minh mỗ nào dám ở lâu, núi cao sông dài, có ngày gặp lại.
Hàn Ngưng Tử nghe lão nói năng cổ quái, lấy làm lạ bèn hỏi:
-Minh lão quỷ, lão nói chuyện với ai đấy?
Minh Quy chẳng đáp lời nào, vội vã chuyển thân chạy mất. Hàn Ngưng Tử thấy lão vắt giò lên cổ mà chạy, chẳng hiểu ra sao, chỉ đến khi thân ảnh lão tiêu biến, mới chuyển mắt nhìn sang, nhìn kỹ đạo cô áo xám, chợt cười hì hì nói:
-Thật là hổ thẹn, Minh lão quỷ tính tình quái gở. Còn tiểu nữ thì chẳng biết tốt xấu, muốn lĩnh giáo đạo trưởng cao chiêu.
Chợt sử chiêu “Băng Hoa Lục”, thân người như gió lốc, cuốn lấy đạo cô, do mụ chẳng biết gì về đối phương, nên ra tay trước để thăm dò, chẳng mấy chốc đã cuốn thành vòng tròn, chợt phóng ra một chưởng.
Đạo cô ngón tay giữ trúc tiêu, đứng yên bất động, thấy chưởng phóng tới, liền nhẹ nhàng xuất trúc tiêu, đoạn tiêu không nghiêng không lệch, nhằm thẳng “lao cung huyệt” trên chưởng tâm của Hàn Ngưng Tử .
Mụ khẽ lạnh người, vội vàng thu chưởng, bộ pháp chợt tăng, tung thêm một chưởng, lại thấy đạo cô nhẹ nhàng chuyển thân, trúc tiêu vẫn chỉ nhắm vào “lao cung huyệt”. Hàn Ngưng Tử hoảng sợ, bất ngờ kêu một tiếng, càng lúc càng nhanh, trong khoảnh khắc đã hướng đạo cô xuất liền sáu chưởng. Đạo cô không run không sợ, chuyển thân huy xuất trúc tiêu, đoạn tiêu thủy chung vẫn không rời “lao cung huyệt” trên chưởng tâm của Hàn Ngưng Tử. Hàn Ngưng Tử đột nhiên tung người xoay mình hạ xuống, nhẹ nhàng chạm đất, đưa mắt nhìn đạo cô, sắc mặt tái nhợt.
Đạo cô khẽ cúi mình nói:
-Tôn giá chắc là cao thủ của Đại Tuyết Sơn?
Hàn Ngưng Tử chợt run lên, cười khanh khách nói:
-Đạo trưởng kiến thức cao minh, tiểu nữ bội phục bội phục.
Nói xong cúi người đáp lễ. Lương Tiêu biết mụ tiểu lý tàng đao, tâm địa thâm trầm, chợt thấy Hàn Ngưng Tử chắp tay thi lễ, bỗng lam quang thiểm động, hắn hoảng hốt kêu :
-Đạo trưởng cẩn thận.
Tiếng la vừa vang lên, chỉ thấy một đạo lam quang từ Hàn Ngưng Tử phóng ra, nhắm thắng yết hầu đạo cô. Đạo cô được Lương Tiêu điểm tỉnh, dĩ nhiên có phòng bị, trúc tiêu khẽ xoay, trên lỗ tiêu giờ đây lại có thêm một sắc lam đó là một cây cương châm, ngạc nhiên nói:
-Các hạ thật độc ác!
Hàn Ngưng Tử một khi đã làm thì chẳng dừng tay, quát lên một tiếng, sử chiêu “Thiên Tuyết Cái Đỉnh”, huy chưởng phóng ra, từ trên không chém xuống, đạo cô nhẹ lui vài bước, trúc tiêu vút lên, vẫn hướng vào chưởng tâm của Hàn Ngưng Tử, Hàn Ngưng Tử vội vàng rụt tay, lật chưởng như điện, bửa xuống vai đạo cô. Trong chốc lát, chỉ thấy hai người lúc lên lúc xuống, đánh đến trên dưới mười chiêu, thình lình Hàn Ngưng Tử rên lên một tiếng, ngã lui hơn trượng, cúi đầu nhìn xuống, chỉ thấy trên “lao cung huyệt” giờ đây đã có thêm một cây cương châm, ngay lập tức, cả cánh tay gần như tê liệt, sắc mặt giống như người chết, hấp tấp lấy ra một bình ngọc, dốc ra hoàn đan, ngậm vào miệng, oán giận nói:
-Đạo trưởng ban cho cái gì ngày hôm nay, Hàn mỗ ngày sau sẽ đền đáp gấp bội.
Mụ chuyển thân định chạy. Lại nghe Lương Tiêu gọi:
-Chậm đã.
Hàn Ngưng Tử nghe được chấn kinh, nhưng vẫn không chịu tỏ ra yếu thế quay lại, cười nhạt:
-Thế nào? Hàn mỗ dù đang thụ thương, vẫn chẳng sợ ngươi.
Lương Tiêu vốn có ý thừa cơ lấn tới, nhưng nghe mụ nói vậy, cảm thấy không ổn, thản nhiên nói:
-Bắt người lâm nguy, Lương mỗ chẳng thể làm được. Chỉ muốn nói với ngươi một điều, những gì xảy ra trong suốt những ngày qua, ngày sau trùng phùng, Lương mỗ sẽ hết lòng đền đáp.
Hàn Ngưng Tử trong lòng chùng xuống, cười nhạt:
-Hay lắm, chỉ mong ngươi có khả năng đó.
Chợt từ chưởng tâm cảm giác tê buốt dần dâng lên, trong tim tựa như đang rét buốt, thầm biết độc châm phát tán, dư độc công tâm, hậu quả khó lường, đành gấp gáp chuyển thân, phóng vào trong rừng.
Lương Tiêu nhìn thân ảnh mụ tiêu biến, nhất thời ý niệm nổi lên, hôm nay phóng tha người này, về sau hậu họa vô lường, bất giác cảm thấy rất hối hận, nhưng chẳng thể nói gì, chỉ đưa mắt lặng lẽ nhìn nơi mụ vừa mới rời khỏi. Bỗng nghe đằng xa có tiếng động, chuyển mắt nhìn sang, thì thấy bốn thiếu niên chẳng nói lời nào, đã dắt xe trâu bỏ đi, thầm biết bọn họ trước đây trộm lừa, nay gặp lại đương sự, nên chẳng từ mà biệt. Rồi hướng đạo cô áo xám chắp tay nói:
-Đa tạ đạo trưởng tương trợ.
Đạo cô áo xám cúi đầu buồn bã nói:
-Vô lượng thọ phật, bần đạo tu hành đã lâu, trước nay chưa từng sinh lòng nổi giận, hôm nay xuất thủ, e rằng đã sai.
Lương Tiêu cười nói:
-Đạo trưởng bất tất phải bận tâm, nữ tử ấy đại gian đại ác, thấy không vui là liền giết người, chỉ là một cây độc châm nho nhỏ, đã quá tiện nghi cho mụ rồi.
Đạo cô cau mày nói:
-Đại ác cũng có nhiều loại hoặc cố ý hoặc vô ý, nhưng giết người chẳng phải là điều tốt.
Những từ này ẩn chứa hàm ý, Lương Tiêu chẳng thể lĩnh ngộ, chỉ đành cau mày không nói. Lại nghe đạo cô áo xám nói:
-Nữ tử ấy vũ công cực cao, người lại nhan hiểm độc ác, ngươi và cô ta lại có ân oán. Xem ra cô ta bị độc thương cũng tốt, chẳng thể tìm ngươi ngay được, chẳng hay có thể đến tiểu quán dạo chơi vài ngày, lánh mặt một thời gian vẫn tốt hơn.
Lương Tiêu biết bà có lòng giúp đỡ, lại nghĩ đạo cô vũ công thâm sâu khó lường, nếu được đi cùng với bà ta, lại càng hay, liền cười nói:
-Đạo trưởng trượng nghĩa, Lương Tiêu cung kính không bằng tuân mệnh.
Lời chưa nói xong, đã thấy tiểu đạo cô song thủ chống nạnh, nhăn mày trợn mắt, hướng tới hắn lấy tay ra dấu. Đạo cô áo xám buồn bã:
-Ách nhi ngươi đa tâm rồi? Lễ tiết nam nữ, không quan trọng bằng mạng người.
Chuyển hướng Lương Tiêu nói:
-Nó nói năng hàm hồ. Thí chủ đừng để tâm làm gì.
Lương Tiêu cười nói:
-Cô ấy chửi ta à? Tùy cô ta muốn chửi gì thì chửi, ta có hiểu gì đâu.”
Đạo cô áo xám cười nói:
-Mắng chửi thì chẳng có, nữ hài tử từ khi sinh ra đã thế, ngươi không thấy khó chịu chứ?
Lương Tiêu bất giác nhìn cô ta, Ách nhi bị sư phụ cười nói, mặt mũi ửng hồng, không ngừng dậm chân, quay người bỏ đi.
Lương Tiêu lại nói:
-Thỉnh vấn đạo trưởng cao danh.”
Đạo cô áo xám nói:
-Bần đạo Liễu Tình.
Lương Tiêu nói:
-Liễu Tình đạo trưởng một mình bức lui hai đại ác nhân, thật là lợi hại.
Liễu Tình cười khổ:
-Hai người đều vô cùng lợi hại, một thôi đã khó đối phó, chẳng may liên thủ, bần đạo tất bại không còn nghi ngờ gì nữa. Nói tới đây, ta cũng phải nhờ vào uy danh của người khác, mới khiến hoàng y lão nhân sợ hãi mà bỏ đi.
Lời dứt, lông mày khẽ nhướng, rồi thở dài. Lương Tiêu thấy lạ:
-Ai mà có uy danh lớn đến vậy?
Liễu Tình miệng khép lại, muốn nói nhưng mà lại thôi, chỉ lắc đầu rồi thôi. Lương Tiêu thấy bà không muốn nói, cũng chẳng hỏi nhiều làm gì.
Bốn người vừa đi vừa nói, trên đường núi. Liễu Tình sống ở trên núi, phong quang thắng cảnh đương nhiên điều biết. Trong thời gian lên núi, liền chỉ dẫn các nẻo đường, giới thiệu cho hai người mọi cảnh sắc, sở học của bà thập phần uyên bác, thi từ văn phú chẳng gì không thông, tuyệt không bao giờ nói lời bất tín, thường từ từng ngọn cỏ ngọn cây, từng tấm bia hòn đá mà tìm ra những điều chân lý, tuy nói người ở tại Hoa Sơn, nhưng dường như tung hoành tám hướng, lịch kinh thiên cổ, buồn giang sơn gấm vóc, cảm hưng vong thiên hạ. Lại nói A Tuyết mục quang thủy chung vẫn không rời Lương Tiêu, chợt nghe trong lòng dâng lên những dư vị mới.
Đi hơn ngàn thước, chúng nhân ngồi xuống nghỉ ngơi. Ách nhi một mình đằng xa, không ngồi chung với mọi người. Lương Tiêu hướng Liễu Tình hỏi:
-Liễu Tình đạo trưởng, tiểu tử muốn tìm một người chẳng hay đạo trưởng đã nghe qua chưa.
Liễu Tình cười nói:
-Thí chủ cứ nói.
Lương Tiêu nói:
-Khi cha con còn sống, đã từng nói với con, hồi ông ấy còn trẻ sống ở Hoa Sơn, đã có một vị trưởng bối, là đạo sĩ, đạo hiệu Huyền Âm. Đạo trưởng quen không?
Liễu Tình kêu lên một tiếng, nhìn Lương Tiêu từ trên xuống dưới, thần tình cổ quái, một lúc lâu mới gật đầu nói:
-Vừa hay có biết!
Lương Tiêu vui mừng nói:
-Ôi chao, ông ta ở đâu?
Liễu Tình trầm mặc một hồi, rồi thở dài, đứng dậy nói:
-Đi cùng ta!
Lương Tiêu trông thấy bà ta như vậy, thì cảm thấy quái lạ, liền cất bước theo sau. Đi được khoảng một dặm lộ trình, phía trước xuất hiện một vách núi, như cây bút chiếu thẳng lên trời, to lớn và hùng vĩ, Liễu Tình nắm lấy một sợi dây leo, tung người treo lên, thân thủ cực nhanh, tay áo phất phơ, trông giống như một con diều hâu tung cánh, lăng không bay lên, cất mình vài cái, đã ở trên vách núi, Ách nhi buộc lừa trắng xong rồi vội vã bay lên theo.
Lương Tiêu rất lấy làm lạ, rồi cùng A Tuyết leo lên. Thì ra trên đỉnh là một khoảng đất trống rộng rãi. Liễu Tình đến trước một nấm mộ trên đó, nói:
- Đây này!
Lương Tiêu dừng bước, nhìn nấm mộ, đằng trước dựng một tấm bia đá, trên viết bốn chữ “Huyền Âm di trủng”.
Lương Tiêu ngạc nhiên:
- Thật ư?
Liễu Tình gật đầu:
- Ngôi mộ này là do bần đạo đích thân đắp, đã từ lâu.
Lương Tiêu kinh ngạc:
- Vì... vì sao ông ấy mất?
Liễu Tình kể:
- Mười lăm năm trước, lúc ấy ta còn chưa bước vào huyền môn, để tránh địch nhân nên đến chân núi Hoa Sơn. Vừa lúc gặp một tốp lính Mông Cổ cưỡi ngựa đuổi giết hai đạo sĩ một già một trẻ. Ta đánh lui bọn Thát, cứu được hai người, tiểu đạo sĩ trúng liền mấy mũi tên, lại còn bị ngựa giẫm nát, lúc ấy đã chết. Đạo nhân già bị thương nặng, cũng không còn ở lại nhân thế bao lâu nữa. Ông sợ truy binh đuổi đến, nên bảo ta đưa ông lên chỗ này, rồi cho ta biết: pháp hiệu của ông là Huyền Âm, vì quân Mông Cổ tiến xuống nam trong lòng phẫn uất, nghe nói có một viên tướng Mông Cổ từ trên núi xuống đi qua, ông bèn dắt đồ đệ xuống hành thích. Nhưng cuối cùng lại bị người Mông Cổ truy sát... – Nói tới đây, bà thở dài.
Lương Tiêu nhìn nấm mộ chơ vơ, rất buồn rầu: “Cha mất rồi, Huyền Âm đạo trưởng cũng qua đời, chẳng phải là trời già chẳng thương ai, không phù hộ cho người tốt hay sao?” Càng nghĩ càng buồn bã.
Liễu Tình thấy gã sầu muộn, bèn nói:
- Hồi đó ta đến đây cũng buồn bã lắm. Huyền Âm đạo trưởng tuy đã cận kề cái chết nhưng vẫn an ủi ta. Ta bước vào huyền môn cũng là do lĩnh hội lời răn của người. Người cũng gần như sư phụ ta, đáng tiếc cuối cùng không cứu được người. Ôi, sinh tử chẳng thể biết được, ai có phận nấy rồi, thí chủ cũng đừng đau thương quá.
Lương Tiêu vái ba vái trước nấm mộ. Tế bái xong xuôi, bốn người đi vào trong quán. Quán Huyền Âm lợp gianh, có hai gian không to không bé. Gian đằng trước treo bức vẽ Lão Quân cưỡi trâu, tranh đã nhạt màu, có vẻ lâu đời. Bên trái bên phải có hai gian, đằng sau là thư phòng. A Tuyết và Ách nhi cùng ở một gian, Lương Tiêu nghỉ ở thư phòng.
Ăn xong cơm chay, Lương Tiêu thấy buồn tẻ quá bèn lật sách ra xem, nhận ra rất nhiều bút tích của phụ thân, vừa mừng vừa lạ. Thì ra, khi Văn Tĩnh còn bé rất thường đến quán đọc sách, lại thích viết vẽ trong sách. Lương Tiêu cứ thế xem mãi, đến nửa đêm, lòng bồi hồi không sao ngủ được. Hắn bèn ngồi dậy đi dạo, đi một lát, chợt nghe phía xa có tiếng sáo vẳng đến, giai điệu buồn bã, khiến người ta xúc động tâm tư.
Lương Tiêu cảm xúc trong lòng, liền khoác áo đi ra cửa. Nào ngờ mới bước ra khỏi ngưỡng cửa thì tiếng sáo vụt tắt, chỉ còn gió thổi hiu hiu bên tai. Lương Tiêu đi xuyên rừng tùng, bốn bề vắng ngắt không một bóng người. Hắn đứng trước mộ Huyền Âm, nhớ tới lời vĩnh biệt của mẹ, cái chết thê lương của cha, lòng bỗng bi ai khó tả, lại nhớ tới Liễu Oanh Oanh, càng thấybuồn thảm. Hắn nhớ đến Xuyên tâm thất thức, liền tuốt kiếm còn chưa kịp đâm ra, chợt nhớ tới lời giao ước với Sở Tiên Lưu lại ỉu xìu buông tay. Hắn ngửa mặt nhìn trời, trời đêm man mác, ngàn sao giăng giăng.
Lương Tiêu ngắm màn sao ấy, bỗng nghĩ ra: “Võ công trên thế gian là do con người sáng tạo, Sở Tiên Lưu không cho ta dùng bảy đường kiếm ấy thì ta tự mình sáng chế ra một lộ kiếm pháp mới vậy!” Lương Tiêu bị ý nghĩ ấy kích thích, bỗng phá lên cười ha hả, tức thì, gã múa kiếm như gió, kiếm quang loe lóe, bao nhiêu hờn oán trong lòng hòa nhập vào kiếm, ánh kiếm biến ảo khôn lường, từng chiêu từng thức đều hòa hợp thiên văn chi lý.
Lương Tiêu thỏa sức thi triển lộ kiếm pháp ấy đến nửa canh giờ thì thấm mệt, bèn dừng lại, nghỉ ngơi một lát. Lúc ấy, chợt có người vỗ tay nói:
- Hảo kiếm pháp!
Lương Tiêu nhìn ra thì thấy Liễu Tình tay cầm cây trúc tiêu đứng trước mặt mình. Lương Tiêu tra kiếm vào vỏ, cười nói:
- Thì ra là tiếng sáo của đạo trưởng! Bà thổi sao mà nghe buồn quá!
Liễu Tình cười nói:
- Bần đạo thổi cho vui, không ngờ lại quấy nhiễu giấc mộng của ngươi.
Lương Tiêu cười nói:
- Không sao, đằng nào ta cũng không ngủ được. À, ta họ Lương, tên là Tiêu, đạo trưởng có thể gọi là Lương Tiêu hay tiểu tử cũng được, đừng gọi thí chủ, nghe khách khí quá.
Liễu Tình mỉm cười:
- Được! Ta mạn phép gọi ngươi là Lương Tiêu vậy! – Ngừng một lát, bà tiếp. – Lộ kiếm pháp vừa rồi của ngươi dường như hàm chứa thiên văn.
Lương Tiêu kinh ngạc:
- Đạo trưởng nhãn lực thật tốt.
Liễu Tình cười nói:
- Không dám. Chẳng biết ai là người truyền cho ngươi kiếm pháp đó?
Lương Tiêu đáp:
- Không ai dạy cả, ta cao hứng nhất thời, tự nhiên nghĩ ra rồi múa vậy thôi.
Liễu Tình kinh ngạc:
- Ngươi tự sáng tạo ra lộ kiếm pháp đó à? Ngươi còn ít tuổi mà đã hiểu được cả thiên tượng, sáng tạo ra kiếm pháp mới, thật không đơn giản. Lộ kiếm pháp này múa lên như nước chảy mây trôi, có thể gọi là Thiên Hành kiếm pháp được không?
Lương Tiêu cười:
- Đạo trưởng đề cao ta quá. Lộ kiếm pháp này chẳng qua mới sơ sài một hai đường, làm sao xứng với hai chữ “Thiên Hành”?
Liễu Tình tủm tỉm:
- Đừng khiêm nhường quá.Kiếm pháp tuyệt đỉnh trên đời đều bắt đầu từ một hai đường sơ sài như thế thôi.
Lương Tiêu ngượng ngùng, nghĩ một chút rồi hỏi:
- Tuyệt đỉnh ư? Kiếm pháp của Sở Tiên Lưu có thể coi là tuyệt đỉnh được không?
Liễu Tình mỉm cười:
- Ngươi quen ông ấy ư? Chà, nếu nói về kiếm pháp thì Sở Tiên Lưu cũng có thể coi là một nhân vật tuyệt đỉnh đấy.
Lương Tiêu hỏi:
- Đạo trưởng đấu kiếm với ông ấy thì ai giỏi hơn?
LIễu Tình phì cười:
- Bần đạo chỉ là đom đóm, đâu thể đua sáng với mặt trăng?
Lương Tiêu phản đối:
- Việc gì đạo trưởng phải khiêm tốn như vậy! Sở Tiên Lưu có ngoại hiệu là thiên hạ đệ nhị kiếm, vẫn còn nhân vật lợi hại hơn ông ta.
Liễu Tình không đáp, ánh mắt nhìn ra xa, Lương Tiêu nhìn theo ánh mắt bà, chỉ thấy mây trắng phiêu diêu, trăng cong lưỡi liềm, chiếu sáng cả vùng rừng núi.
Một lúc lâu sau, Liễu Tình mới thả nói:
- Bây giờ nói về kiếm, chỉ có hai người đáng mặt tông sư. Một là Âu Dương Tử, tông sư về rèn kiếm, người này tính tình quái gở lắm, cứ rèn được một kiếm lại phải hủy một thanh kiếm khác.
Lương Tiêu tò mò:
- Kiếm rèn thì đã rèn rồi, hủy làm gì?
Liễu Tình cười:
- Âu Dương Tử có nói: chỉ đúc thứ vũ khí nào lợi hại bậc nhất thiên hạ. Nói về kiếm, trong thiên hạ có ba thanh xứng đáng xếp hàng đầu trong vòng mấy chục năm nay và đều là tác phẩm của ông ta. Vì vậy nếu ông ta không thể vượt qua được những thanh kiếm mình rèn lúc trước, quyết không bao giờ rèn nữa, nhưng chỉ cần rèn xong một thanh là sẽ trở thành thiên hạ đệ nhất. Quyết không rèn ra một thanh Thiên hạ đệ nhị kiếm!
Lương Tiêu cười nói:
- Nghe hay quá. Nếu gặp được, nhất định tôi sẽ nhờ ông ấy rèn hộ cho một thanh kiếm.
Liễu Tình lắc đầu:
- Đáng tiếc Âu Dương Tử đã tuyệt tích giang hồ nhiều năm rồi.
Lương Tiêu nói:
- Thế ư, đáng tiếc thật!
Liễu Tình cười nói:
- Đừng nản lòng, vạn sự trên đời đều có duyên pháp, nếu đã có duyên thì nhất định sẽ gặp. Còn người kia, thì là đại tông sư về dụng kiếm. Người này văn võ song toàn, uyên bác như người nhà trời, chỉ tiếc cuộc đời lận đận, khi tập văn thì toàn phạm húy, thi nhiều lần mà không đỗ, đành làm một chức sắc nhỏ. Tuy ông ấy thất vọng chán chường như rất nhiệt tâm với thời cuộc, dâng sớ lên triều đình, vạch ra những điều thối nát. Kết quả đã làm giới quyền quý nổi giận, dùng hình phạt khốc liệt khảo đả, lưu đày ba ngàn dặm, gia tư bị tịch thu sạch. Cha mẹ gặp phải điều ô nhục ấy nên theo nhau lâm bệnh qua đời.
Liễu Tình kể xong, buồn bã thở dài, nín lặng một lúc lâu.
Lương Tiêu nghĩ đến thân thế, rất đồng cảm, gật đầu nói:
- Người này tuy cũng rỗi hơi, nhưng kể cũng có gan. Có trách thì trách triều đình khốn kiếp chẳng ra làm sao.
Liễu Tình kể tiếp:
- Trước năm mười bảy tuổi, ông ta rất tôn sùng lời dạy của thánh hiền, của Nho gia, cứ mở miệng ra là bàn chuyện Khổng Mạnh, hành sự luôn đứng đắn. Nhưng không ngờ sự nhiệt tình ấy lại gặp phải rủi ro. Ông nổi giận, lại quá khích, đột ngột từ phương nam chuyển lên đất bắc này, đứng giữa trời đất cắt tóc mà thề rằng: đời này kiếp này, cho dù trời sụp đất nghiêng, cũng không thèm lo lắng đến chuyện xã tắc giang sơn nữa. Từ đó mai danh ẩn tích. Người này đúng là bậc kỳ tài, là cao thủ lẫy lừng trong vòng sáu bảy mươi năm nay.
Lương Tiêu nghe đến đây, buột miệng khen:
. Liễu Tình đạo trưởng, người đó đã là đại tông sư về dụng kiếm thì chắc kiếm pháp của ông nhất định có chỗ độc đáo.
Liễu Tình mỉm cười:
- Kể về độc đáo, thì nói một lời khó trọn vẹn lắm. Nhưng ngươi đã ngộ ra được kiếm pháp từ thiên văn thì chắc cũng tinh thông số học, chắc biết nhà Hạ có Liên Sơn, nhà Thương có Quy Tàng, nhà Chu có Chu Dịch. Ba cuốn sách này đều là kỳ thư nghiên cứu những sự vi diệu của vũ trụ. Liên Sơn còn sơ sài, không đáng kể. Chu Dịch tuy được các thánh nhân chỉnh sửa nhiều lần, lưu truyền rộng nhất, nhưng cao siêu đến đâu mà chẳng có sai sót, vô tình đã đánh mất bản sắc tự nhiên… - Nói đến đây, như sực nhớ ra, bà nhíu mày hỏi. – Chà, ta cao hứng nên nói xa xôi quá rồi. Lương Tiêu, ngươi biết lai lịch ba cuốn này chứ?
Lương Tiêu cười nói:
- Tôi có nghe qua. Thời thượng cổ, Đại Vũ trị thủy được trời giúp đỡ, có con rồng cõng bức hình nhô lên khỏi Hoàng Hà, có con rùa ngậm cuốn sách trồi lên Lạc Thủy.
Liễu Tình chăm chú nghe, lại hỏi:
- Sau đó thế nào?
Lương Tiêu nghe ra bà có ý muốn kiểm tra mình, bèn nghiêm chỉnh nói:
- Sau đó, người đời gọi bức hình là Hà Đồ, gọi cuốn sách là Lạc Thư. Đại Vũ dựa vào Hà Đồ và Lạc Thư để vạch rõ giang sơn, nắn sửa các dòng chảy, kiềm chế lũ lụt khắp chín châu, làm cho thiên hạ thái bình. Cuối đời rảnh rỗi, người bèn đem hiểu biết về công việc trị thủy thêm vào Hà Đồ, viết ra một cuốn sách gọi là Liên Sơn. Liên Sơn có nghĩa là nước non liên tiếp, để không quên việc trị thủy.
Liễu Tình cười hỏi:
- Nói hay lắm, sao lại ngừng thế?
Lương Tiêu cười đáp:
- Thật hổ thẹn, đạo trưởng bắt tại hạ múa rìu qua mắt thợ, tại hạ cũng đành làm mặt dày mà phô diễn vài ba câu. Lại nói trải qua mấy năm nữa, Đại Vũ tuy rất giỏi nhưng cuối cùng hai chân cũng bị ríu vào nhau…
Liễu Tình ngạc nhiên cắt ngang:
- Thế nào là hai chân ríu vào nhau?
Lương Tiêu cười đáp:
- Đó là cách nói của dân quê nhà tôi, có nghĩa là nhắm mắt xuôi tay.
Liễu Tình nói vẻ nghiêm túc:
- Đại Vũ tạo phúc cho dân, khắc phục được tình trạng lũ lụt, là một đại anh hùng tài ba, chúng ta nên tôn trọng người.
Lương Tiêu không tiện đuà nghịch nữa, đành cười nói:
- Lại nói đại anh hùng Đại Vũ qua đời rồi, con trai ông là tiểu anh hùng Hạ Khởi lên làm hoàng đế nhà Hạ, đem dâng cuốn Liên Sơn cho thần thư làm căn cứ bói toán để suy luận họa phúc. Sau Hạ Khởi rất nhiều năm bỗng xuất hiện một đại anh hùng khác là Thương Thang, diệt nhà Hạ, lập ra nhà Thương. Liên Sơn rơi vào tay tể tướng Y Doãn nhà Thương. Y Doãn cũng là người thông minh, ông ta dồn tâm sức viết thêm và hiệu đính Liên Sơn, cuối cùng tạo thành cuốn Quy Tàng. Ý nghĩa của quy tàng là “vạn vật trong trời đất đều ẩn sâu bên trong chính nó”, Y Doãn hết sức tự hào về cuốn sách này. Vua Thương đời sau cũng dùng nó để đoán định phúc họa.
Nói tới đây, bất giác cảm khái trước thế sự khôn lường, Lương Tiêu buồn buồn nói:
- Đáng tiếc, họa hay phúc đều bởi trời, con người không quyết định được. Bất luận Quy Tàng hay đến đâu, qua mấy năm thì triều Thương cũng kết thúc. Lúc ấy thiên hạ li loạn, Thang Trụ Vương lùng sục khắp nơi tróc nã những người chống đối. Y sợ chư hầu nước Chu là Cơ Xương mưu phản, bèn đem giam ông ta ở Dữu Lý, ai ngờ Cơ Xương là người thông minh tuyệt đỉnh, trong thời gian nằm nhà lao, nhàn rỗi quá đâm buồn tẻ, ông nghiên cứu cuốn Quy Tàng, cuối cùng chợt nghĩ ra một ý tưởng tuyệt vời, viết thành bộ sách Chu Dịch cực kỳ nổi tiếng. - Nói tới đây, Lương Tiêu cau mày. – Liễu Tình đạo trưởng, tôi có mấy chỗ không được rõ ràng lắm. Trong ba bộ sách này, nếu xét riêng sự thâm sâu và hoàn chỉnh thì Chu Dịch được thừa nhận là số một, nhưng nghe ý tứ của đạo trưởng thì hình như Chu Dịch không bằng Quy Tàng.
Liễu Tình cười rằng:
-Nếu muốn bàn về đăng phong tạo cực, tất chẳng thể bỏ qua "Chu Dịch" . Các học giả xưa nay học Kinh Dịch nhiều đếm không xiết, sách vở chú giải chất cao từng đống. Chỉ có điều chú giải ít mà xuyên tạc thì nhiều, dựa theo thiển kiến mà tán loạn! Họ đâu có biết, dịch lý vốn là lẽ trời đất, mang tính tự nhiên. Ôi, qua nhiều năm tháng, một bản "Chu Dịch" tuyệt hảo đã bị bọn hủ nho quậy tầm bậy tầm bạ, thành ra năm cha ba mẹ!
Lương Tiêu nghe bà nghị luận đúng tủ, khoái chí vỗ tay:
- Lời đạo trưởng bàn đó thật chính xác!.
Liễu Tình lắc đầu, nói:
- Những ý ấy không phải của ta, đều xuất phát từ miệng của vị đại tông sư đó, Người bảo: 'Quy Tàng' " xuất phát từ những ý niệm sơ khai giản dị, từ những hào quẻ quái tượng, tam muội, rồi người gạn lọc tinh tuý của chúng, kết hợp với võ công diệu nghệ của chính mình, trong nhiều năm sau đó, đã sáng tạo ra một môn kiếm pháp, đặt tên 'Quy Tàng kiếm'.
Lương Tiêu buột miệng nói:
- 'Quy Tàng kiếm'? Tất cả mọi thứ trong trời đất, đều chẳng phải đã bắt nguồn từ Quy Tàng hay sao?.
Liễu Tình nghe gã chỉ một câu mà nêu đúng ngay vào tinh tuý đạo lý của thuật dụng kiếm, bèn vui vẻ cười, khen:
- Đúng vậy! Kiếm pháp Quy Tàng kiếm có tám kiếm đạo, chia ra làm càn , khôn , tốn , khảm, ly , cấn , đoài , chấn., theo ý của 'Quy Tàng', vạn vật tương sinh, chi phối tác động mọi thứ trong trời đất. Lương Tiêu ngươi hãy để ý xem đây.
Nói xong, bà lấy ra một ngọn trúc tiêu, trước mặt Lương Tiêu sử mấy chiêu khởi đầu của 'Đường kiếm càn'. Càn tượng về trời, kiếm thế vời vợi, như bầu trời cao từ muôn thưở, vạn cổ vân tiêu, không linh vô cực.
Lương Tiêu theo dõi hai chiêu kiếm đó, chợt sang tỏ trong lòng:
- Thì ra Liễu Tình đạo trưởng tốn bao nhiêu nước bọt giải thích lý luận, mục đích là dạy ta kiếm thuật, nhưng sao bà ấy đã không chịu nói rõ ý định đó ra, mà lại nói vòng vo nhiều lời làm chi vậy? Nhưng các chiêu thức của Quy Tàng kiếm thật tuyệt diệu không lời nảo tả cho xiết, vừa để mắt vào, đã bị thu hút đến mức không cách nào rứt ra cho được.
Đường kiếm càn bao gồm các chuyển vận tinh tú, thiên tượng, có chỗ gần giống với "Thiên Hành kiếm pháp", nhưng biến hoá phức tạp hơn, nhiều chi tiết hơn, trước sau có tất cả chín Đại kiếm thức, mỗi Đại Kiếm thức lại gồm chín Trung Kiếm thức, mỗi Trung Kiếm thức tự nó mỗi thức có chín Tiểu Kiếm thức, tất cả liền lạc, biến hoá không cùng.
Liễu Tình vừa giải thích vừa thi triển, đến một canh giờ mới diễn giải xong đường kiếm Càn, bèn hỏi:
- Ngươi nhìn rõ chứ?
Lương Tiêu gật đầu:
- Đại khái là nhìn rõ.
Liễu Tình nghe giọng gã khoa trương như vậy, bỗng ngẩn người, bởi vì Đường kiếm Càn biến hóa rất rắc rối, xếp hạng nhất trong tám đường kiếm, bà nhất thời không tin được, định bụng để xem Lương Tiêu còn chỗ nào chưa rõ thì sẽ tận tình chỉ bảo thêm, bèn nói:
- Được, vậy ngươi diễn lại ta xem.
Lương Tiêu lặng lẽ ngẫm nghĩ rồi vụt tuốt trường kiếm, thi triển từng chiêu của Đường kiếm Càn, một mạch từ đầu tới cuối. Liễu Tình càng quan sát càng kinh ngạc, tuy động tác của Lương Tiêu còn chậm nhưng tiến thoái rất ung dung, trầm ổn, kiếm chiêu liền lạc nhịp nhàng, không hề vấp váp chỗ nào. Lương Tiêu diễn hết một lượt, dừng lại nói:
- Tiểu tử diễn có đúng không?
Liễu Tình ngạc nhiên nói:
- Nếu vị đại tông sư ấy mà gặp ngươi thì chắc sẽ mừng vui lắm.
Lương Tiêu cười hì hì:
- Đạo trưởng quá khen rồi, có rất nhiều chỗ biến hóa tôi còn chưa nhớ rõ!
Liễu Tình phì cười:
- Nếu ngươi thuộc làu làu cả thì thành thần tiên mất rồi. Ta tự phụ là mình cũng không phải dạng chậm hiểu, thế mà học Đường kiếm Càn này cũng phải mất tròn sáu ngày đấy.
Thực ra, Đường kiếm Càn tuy rườm rà rối rắm, nhưng gắn liền với phạm vi của toán thuật cổ đại. Lương Tiêu thông hiểu toán học, nên suy luận ra rất dễ dàng. Gã nhìn vẻ mừng rỡ của Liễu Tình, vòng tay thưa:
- Đạo trưởng mới gặp tiểu tử mà đã truyền thụ kiếm pháp này, tiểu tử không có công mà hưởng lộc, thật áy náy quá!
Liễu Tình cười đáp:
- Năm xưa, khi truyền thụ kiếm pháp này cho ta, vị đại tông sư ấy đã nói, Quy Tàng kiếm sâu xa khôn lường. Nếu bần đạo có đủ phẩm chất tài năng thì nên truyền thụ lại cho người khác, tránh cho kiếm pháp thất truyền. Vừa rồi ta thấy ngươi sáng tạo ra kiếm pháp, thật thông minh hiếm thấy nên muốn thử thách đôi chút, bây giờ nghĩ lại, thật bần đạo không nhìn lầm.
Lương Tiêu được tôn trọng như vậy, nhiệt huyết bừng bừng, dõng dạc nói:
- Thế thì đạo trưởng là sư phụ của Lương Tiêu này rồi, xin nhận của Lương Tiêu một lạy.
Gã đang định quỳ xuống thì Liễu Tình đã chìa tay ngăn lại, Lương Tiêu cảm thấy một luồng nhu kình tràn tới, chứa đựng cái uy không đánh mà khuất phục được người, bất giác phải đứng nguyên, trong lòng vô cùng kinh ngạc.
Liễu Tình ngăn được gã vái lạy, hai tay vẫn không thu về, nói nửa cười nửa trách mắng:
- Thật chẳng ra sao, ta là một nữ đạo sĩ, làm sao có thể thu nạp nam đồ đệ! Chẳng may lọt tới tai bọn rỗi chuyện ưa đàm tiếu thì thật không hay!
Lương Tiêu chẳng tần phiền gì chuyện nữ sư phụ nam đồ đệ, nhưng thấy Liễu Tình xem trọng chuyện đó như vậy, cũng đành thôi. Liễu Tình nhìn gã, cười bảo:
- Kiếm pháp là của vị đại tông sư đó, bần đạo chẳng qua là người truyền đạt hộ. Nếu ngươi có lòng, sau này hội ngộ thì bái người làm thầy là được rồi.
Lương Tiêu nghe vậy mới biết, bà không chịu thu gã làm học trò là cố ý chừa đường cho gã dùng Quy Tàng kiếm làm vật dẫn đưa đường đến bái sư trực tiếp ở vị đại kiếm khách kia. Gã cảm động vô cùng, vái lạy sát đất:
- Đạo trưởng tuy không thu đồ đệ nhưng ơn truyền nghệ, Lương Tiêu cả đời không quên.
Liễu Tình mỉm cười, bắt đầu giảng đến tâm pháp. Tâm pháp của Đường kiếm Càn không hoàn toàn là số thuật, mà phần nhiều là võ học. Đến khi trời tang tảng sáng, Lương Tiêu đã lĩnh hội được ba bốn tầng tâm pháp, muốn học tiếp nữa, nhưng Liễu Tình thấy gã cả đêm chưa chợp mắt, sợ hôm sau gã mệt, bèn giục về phòng nghỉ ngơi.
Lương Tiêu xúc động vô cùng, trở về giường, nhưng trằn trọc khó ngủ, khó khăn lắm mới chợp mắt được hai canh giờ là đã dậy rồi, cầm kiếm ra cửa. Lúc này trời đã sáng bạch, chợt nghe có tiếng kiếm rít vun vút, gã ngước mắt nhìn ra, thấy Ách nhi đang luyện kiếm trong rừng tùng, tiến thoái lên xuống nhanh như chớp, đoản kiếm trên tay phát muôn hào quang, kiếm khí cắt lìa những lá thông nhỏ khiến chúng bay ào ào. A Tuyết thì đứng bên xem, thấy Lương Tiêu ra, liền gọi:
- Ca ca mau lại xem, kiếm pháp của Ách nhi tuyệt lắm!
Lương Tiêu cau mày;
- A Tuyết, muội chẳng biết xấu tốt gì cả, xem trộm người ta luyện kiếm là điều đại kỵ. Chẳng may cô ta đâm muội một nhát thì làm thế nào?
A Tuyết tủi thân, cúi đầu nói:
- Nhưng Ách nhi cho muội xem mà.
Lương Tiêu liếc mắt ra, thấy kiếm pháp của Ách nhi biến ảo khôn lường, ngẫu nhiên lại sử một chiêu Đường kiếm Càn thì ngứa ngáy cả người, lao vù lên gọi:
- Xem chiêu đây! – rồi khua một nhát kiếm ra, chính là một chiêu trong Đường kiếm Càn.
Ách nhi không ngờ Lương Tiêu đột nhiên lại vận dụng lộ kiếm pháp đó, trố mắt buông kiếm xuống, lại quên chống đỡ, trường kiếm của Lương Tiêu chạm đến ngực, cô mới sực tỉnh, cả kinh thất sắc. A Tuyết la lên:
- Ca ca...
Cô chưa dứt lời, Lương Tiêu đã thu kiếm về:
- Bị đâm mà không hoàn thủ à?
Ách nhi xịu mặt, vung kiếm đâm ra, Lương Tiêu định tâm luyện chiêu, bèn dùng Đường kiếm Càn đối phó. Hiềm nỗi gã mới học, luyện tập chưa tinh, còn hơi bỡ ngỡ, được vài chiêu đã bị sống kiếm của Ách nhi đập lên cổ tay, đau điếng người, gã rít lên:
- Đồ mũi trâu ranh...
Gã chưa dứt lời, đã bị vả một cái vào miệng, đau đến méo cả miệng đi.
Hai người trao đổi đến hơn hai mươi chiêu, Lương Tiêu nhất quyết luyện kiếm nên trước sau chỉ dùng Đường kiếm Càn công thủ, kế quả chỉ nghe những tiếng lép bép vang lên liên tiếp, Ách nhi chặt ngang chém dọc, cầm bảo kiếm như một mũi gai, một tay chống nạnh, điệu bộ đanh đá, càng đấu càng vui thích. A Tuyết tuy biết cô bé không đời nào làm Lương Tiêu bị thương, nhưng xem mà cũng giật mình thon thót, cứ kêu “thôi đi, thôi đi” liên tục. Liễu Tình nghe tiếng kêu cũng ra xem, cau mặt.
Lương Tiêu lĩnh liền mấy nhát, toàn thân từ đầu xuống chân nóng rát, mất hết kiên nhẫn bèn mắng:
- Đồ mũi trâu ranh, ngươi thử đánh nữa xem! – Rồi quẳng kiếm đi, nhảy xổ tới định vật lộn. Liễu Tình bèn quát lên:
- Gượm đã!
Lương Tiêu trông thấy bà thì bối rối nghĩ bụng: “Chết toi, mải mắng nó là mũi trâu, không ngờ vô tình mắng lây sang cả Liễu Tình đạo trưởng.” Gã nóng bừng cả mặt. Liễu Tình thở dài:
- Ách nhi, ta dạy y mấy chiêu kiếm pháp, con cùng luyện với y thì tới điểm là dừng, không được thừa cơ đánh người.
Ách nhi lắc đầu quầy quậy. Liễu Tình cau mày bảo:
- Con bé này, lại cãi cự gì nữa đây!
Ách nhi liếc Lương Tiêu, đột ngột vạch mũi kiếm xuống đất: “Thằng quái này đáng ghét lắm, con không luyện kiếm với hắn đâu.” Lương Tiêu tái mặt, tức giận mắng:
- Được, ngươi không thích thì thôi, ta cũng thèm vào! – Rồi rũ tay áo bỏ đi. A Tuyết tất tả chạy theo, nhưng Lương Tiêu đang tức giận bừng bừng, guồng chân chạy như gió, chỉ thoáng chốc đã không thấy tăm dạng đâu nữa. A Tuyết gọi với, mắt đỏ hoe lên.
Liễu Tình buồn bực trong lòng, định trách mắng Ách nhi thêm mấy câu nữa, nhưng chực nói ra cuối cùng lại nén lại, nghĩ ngợi một hồi đành thở dài, tự nhủ: “Nó với Lương Tiêu sao cứ mâu thuẫn suốt, phải nghĩ cách để hai đứa hòa hảo mới được.”
Xem tiếp: Bạch Mai Hàm Dương