1 Chuông điện thoại nội bộ réo. Chick Barley đang nhâm nhi li thứ hai buổi sáng, nghe tiếng chuông điện thoại anh rót thêm một chút uytky nữa, miệng lầu bầu chửi tục, rồi ấn nút.
2 Cô gái đưa đến món gà rán và đặt uỵch xuống trước mặt tôi. Rồi cô quay lại nhìn ông già. - Ông gọi gì thì gọi đi hay chỉ ngồi cho nóng ghế?- Thì chả gọi là gì đây, - ông già nói và giơ chiếc cốc lên.
3 n ông nhún vai. - Về ếch thì tôi có thể nói chuyện thoải mái với ông, nhưng Mitch thì tôi chưa gặp bao giờ. Vả lại, theo những chuyện mà người ta đồn đại về anh ta, thì tôi cũng chẳng lấy đó làm thiệt.
4 Tôi dừng xe trước cửa đồn cảnh sát và nhìn xung quanh. Bài trí trong đồn đã quá quen thuộc với tôi. Đó là những cái mà người ta thường thấy trong hầu hết các phim truyền hình: một giá súng, những chiếc còng số tám treo trên móc, hai chiếc bàn văn phòng và ba buồng giam trống vắng.
5 Trong số vô vàn những điều khác, cha tôi đã dạy cho tôi cách viết báo cáo một cách cô đọng, không bỏ qua một chi tiết quan trọng nào, nhưng tước đi hết những nhận xét dài dòng vô ích.
6 Nhìn thấy hai gã da đen tôi đã hoảng hồn. Chúng sóng đôi tiến ra phía cửa phòng tôi. Gã bên phải cao gầy với mái tóc mịn như nhung. Hắn mặc một chiếc áo gilê bẩn thỉu bằng da dê để lộ bộ ngực xương xẩu.
7 “Jumping Frog”(Ếch nhảy) là khách sạn duy nhất ở Searle. Nhìn vẻ ngoài nó như một cái lán gỗ. Nhưng leo lên hết mươi bậc gỗ cọt kẹt dẫn tới cửa vào, tôi thấy yên tâm hơn.
8 Trước khi chia tay với Anderson ở cửa đồn cảnh sát, tôi hỏi anh ta địa chỉ của bố Syd Watkins. - Ông Wally Watkins ấy à? - Bill ngạc nhiên hỏi. - Anh muốn nói chuyện với ông ấy à?- Tôi có thể gặp ông ấy ở đâu?- Có một ngôi nhà nhỏ rất đẹp ở rìa làng.
9 Trước khi chia tay với Anderson ở cửa đồn cảnh sát, tôi hỏi anh ta địa chỉ của bố Syd Watkins. - Ông Wally Watkins ấy à? - Bill ngạc nhiên hỏi. - Anh muốn nói chuyện với ông ấy à?- Tôi có thể gặp ông ấy ở đâu?- Có một ngôi nhà nhỏ rất đẹp ở rìa làng.
10 Do phóng như bay, tôi về tới Paradise City chỉ ít phút trước sáu giờ chiều. Rất may là Chick vẫn còn đang dọn dẹp bàn làm việc. - Mẹ kiếp! - Anh ta thốt lên khi thấy tôi bước vào phòng làm việc.
11 Tôi khó khăn lắm mới kìm được không nổi cáu. - Trong lúc cho thằng bé đi nhờ ông có nói chuyện với nó không? Ông có hỏi nó từ đâu tới không?Với một vẻ chậm chạp đến bực mình, rốt cuộc ông bưu tá cũng chia thư xong.
12 - Ta đi đâu bây giờ, - tôi nói khi chúng tôi ngồi vào xe. - Cứ đi thẳng. Đến chỗ đèn đỏ quẹo trái. Tới ngã tư đầu tiên quẹo trái nữa. (Cô ta sờ tay lên má).
13 Abraham quay trở lại. - Một cà phê và một cô nhắc, - Weatherspoon nói cụt lủn. - Nhà bếp ở đây nấu ăn khá lắm, - tôi nói. - Hình như ông định mua khách sạn này khi ông Wyatt qua đời?- Tôi vẫn còn chưa quyết định.
14 Tôi gọi điện cho cảnh sát trưởng Mason trong một cabin điện thoại bên đường cái. Bill Anderson nhanh chóng nhấc máy. - Bill hả? Mình báo cho cậu biết là ngôi nhà của Fred đã bị đập phá tan hoang, - tôi nói.
15 - Chưa hết. Ông Weatherspoon còn phát minh ra thứ nước chấm đặc biệt bán kèm theo đùi ếch. Thành phần chính là một loại bột được đựng trong một túi nylon đặt trong hộp.
16 Nguyên lãnh đạo phòng thí nghiệm của cảnh sát ở Paradise City là Harry Meadows, một người đàn ông cao gầy và đã ở tuổi xấp xỉ thất tuần. Khi ông về hưu, đại tá Parnell đã đề nghị ông lãnh đạo phòng thí nghiệm của hãng, một phòng thí nghiệm được trang bị cũng không kém phần hiện đại.
17 - Liệu ông có nên báo cho cảnh sát không?- Nếu tôi làm điều đó, họ sẽ tới đè lưng ông đấy. Các nhân viên cơ quan phòng chống ma túy không phải là những tay ngon lành gì đâu.
18 Sáng hôm sau, tới văn phòng tôi nhận được hai thư nhắn. Bức thứ nhất: Ông Anderson nhắn anh gọi điện gấp. Bức thứ hai: Ông Benbolt nhắn anh gọi điện. Những điều mà Terry cho biết khiến tôi lo lắng.
19 Tôi gặp Benbolt ở văn phòng của ông. Ông bắt tay tôi và vồn vã mời ngồi. - Tôi vừa từ Searle về xong, - ông nói. - Do có người yêu cầu mua nhà máy nên tôi nghĩ rằng đã đến lúc nói với cô Peggy Wyatt.
20 Khi tôi dừng xe trước khách sạn Jumping Frog, đồng hồ đã chỉ mười rưỡi đêm. Trước khi tới Searle, tôi đã suy nghĩ về những điều đã xảy ra. Rõ ràng là người ta đã định giết tôi.