1 Tôi sinh năm 1632, tại thành phố Ai-ớc, trong một gia đình nề nếp, nhưng không phải là dân ở đó. Bố tôi người Bờ-rem đến Hơn lập nghiệp. Buôn bán phát đạt và trở lên giàu có, ông chuyển đến Ai-ớc.
2 Vừa tới Luân-đôn, dịp đâu may mắn tôi gặp ngay mấy người bạn tốt. Trước hết, tôi làm quen với một ông thuyền trưởng vẫn thường qua lại bờ biển xứ Ghi-nê.
3 Dù sao đi nữa, chúng tôi cũng bắt buộc phải ghé lên một chỗ nào đó để kiếm nước ngọt. Nhưng biết lúc nào mới lên được và lên ở chỗ nàoâ Thật là khó nghĩ! Xu-ri bảo tôi để cho chú xách một cái vò lên bờ, chú sẽ tìm cho được nước đem về.
4 Trời vừa sáng, một người trong bọn chúng tôi bỗng kêu lên: "Đất liền!" Chúng tôi ra khỏi phòng để xem đó là xứ nào và hiện đang lênh đênh ở miền nào trên quả đất thì chiếc tàu đâm sầm vào một dải cát.
5 Tới nơi, tôi đóng ngay chiếc bè. Kinh nghiệm lần trước giúp tôi khéo tay hơn. Chiếc bè này không cồng kềnh như chiếc trước mà cũng không phải chở nặng quá.
6 Đặt chân lên đảo được mười hai hôm, tôi đã lo vì thiếu giấy, bút, mực, rồi đây mình có thể quên không tính được thời gian. Như vậy, tôi cũng sẽ không phân biệt được chủ nhật với những ngày khác, nếu không kịp thời tìm cách bổ cứu.
7 Ngày 16 tháng 4. - Chiếc thang đã xong, tôi dùng thang trèo lên bờ lũy đá, sau đó tôi kéo thang lên đặt vào phía trong, ở một chỗ đã định. Như thế thì không còn cách nào lọt vào, trừ phi leo qua bờ lũy đá.
8 Mãi đến hôm 15 tháng 7 tôi mới mở một cuộc thăm dò xứ sở của tôi, một cuộc thăm dò kỹ lưỡng nhất từ trước đến nay. Tôi bắt đầu đi ra cái vịnh nhỏ, chỗ ghé tất cả những chuyến bè chở vật liệu lấy ở tàu về.
9 Sau tiết thu phân lại đến mùa mưa. Ngày 30 tháng 9 là ngày kỷ niệm hai năm tôi đặt chân lên đất này và tôi vẫn chưa có thêm một tia há vọng ra khỏi hòn đảo.
10 Bốn năm đã qua. áo quần của tôi đã nối nhau rách như xơ mướp. Mặc dầu khí hậu miền này rất nóng, tôi vẫn phải dùng quần áo như thường. Hết áo quần bằng vải, tôi may bằng da thú.
11 Suốt đêm tôi không chợp mắt được: càng cố xua đuổi cái hình ảnh đã làm cho tôi kinh hoảng thì sự sợ hãi lại càng tăng lên. Nhiều ý nghĩ ghê rợn ám ảnh và làm cho tôi rối loạn tinh thần.
12 Tôi nhất quyết thi hành cho được kế hoạch tác chiến đó. Tôi chuẩn bị sẵn sàng hai khẩu hỏa mai và khẩu súng săn. Súng hỏa mai thì nạp đạn sẵn sắt vụn và đạn súng ngắn, súng săn thì dùng đạn ghém lớn nhất, còn súng ngắn thì nạp đạn chì.
13 Anh chàng là một thanh niên cao lớn, chững chạc, khoảng hai mươi lăm tuổi, người rắn rỏi, chân tay béo lẳn, nhanh nhẹn và có sức lực. Dáng điệu hùng dũng không có vẻ nanh ác; nhất là khi anh cười, ta có thể thấy ở anh những nét dịu hiền và sắc sảo riêng.
14 Một hôm khác, tôi lại cùng anh đi chơi trên ngọn đồi nhìn ra ngoài khơi. Hôm đó trời âm u nên không thể trông thấy dải đất liền ở phương xa. Tôi hỏi anh có muốn trở về quê hương, sống với đồng bào của anh không? Anh trả lời:-Có chứ! Tôi rất sung sướng được gặp đồng bào tôi.
15 Những người thổ dân đã đi rất xa; chúng tôi không nhìn thấy chiếc xuồng chở họ đâu nữa cả. Chúng tôi cũng không phải lo ngại lâu bởi vì chỉ hai giờ đồng hồ sau, lúc đó có lẽ họ chưa đi được một phần tư quăng đường, ngoài khơi bỗng có một cơn gió mùa tây bắc nổi lên dữ dội và kéo dài tới suốt đêm.
16 Tôi đương còn nghi nghi hoặc hoặc chưa hiểu được quang cảnh đó là thế nào thì Thứ sáu đã dùng cái thứ tiếng Anh lơ lớ của anh để hỏi tôi:-Này ông chủ! Đấy ông xem, người Anh cũng đem xử tù binh như đồng bào của tôi chứ có khác gì đâu!-Không đâu! Thứ sáu ạ,-Tôi trả lời-Có lẽ họ đem những người đó lên thả ở đây đó thôi! Theo dõi đám người ấy một lúc, tôi lại nghĩ là những người tù kia có thể bị thảm sát.
17 Nhưng vừa ra khỏi bờ, chúng lại quay trở vào, có lẽ đã nghĩ ra được một cách gì khác để tìm bọn mất tích. Chúng để lại ba tên coi xuồng còn bao nhiêu đều trở lên bờ đi tìm đồng lõa.
18 Đêm tối như mực, bên địch không thể nào biết được quân số của chúng tôi. Không bỏ lỡ cơ hội, tôi bảo anh thủy thủ gác xuồng vừa mới đầu hàng lúc chiều hãy lên tiếng gọi bọn chúng từng tên một và hỏi chúng có muốn qui thuận hay không? Quả là diệu kế; kể ra thì cũng dễ hiểu.