21 Không có dấu hiệu nào của gã thủ thư bên ngoài nhà thờ. Chúng ta tản bộ về phía thư viện - dù Helen trông có vẻ bình tĩnh nhưng tim cha vẫn đập thình thịch - trong túi cô ta và cha có hai cây thánh giá giống hệt nhau mua ở đại sảnh nhà thờ (“Hãy lấy một cái, để lại hai mươi lăm xu”).
22 Cha ngại ngần không muốn dẫn tôi đến Oxford. Cha nói cha sẽ phải lưu lại ở đó sáu ngày, lại một thời gian đủ lâu để tôi bỏ lỡ chương trình trên lớp. Tôi ngạc nhiên khi cha muốn để tôi ở nhà; cha đã không làm vậy dù chỉ một lần từ khi tôi phát hiện ra cuốn sách có hình con rồng.
23 Trong cảnh hỗn loạn của xe cứu thương, xe cảnh sát và người xem tới lui khi xác của gã thủ thư được mang ra khỏi con đường phía trước thư viện trường đại học, trong thoáng chốc cha đứng như chết lặng.
24 Cha tôi đã có những lý do giải thích khá khôi hài về việc cha hiện diện trong phòng đọc tuyển tập ma cà rồng của trường Oxford, thay vì ở chỗ hội nghị.
25 Đối với tôi, ga tàu hỏa Amsterdam là một quang cảnh quen thuộc - tôi đã đi ngang qua đây hàng chục lần, nhưng chưa bao giờ đến đó một mình. Tôi chưa bao giờ một mình đi đến bất kỳ nơi chốn nào, và lúc ngồi trên băng ghế chờ chuyến tàu sáng tốc hành đi Paris, tôi thấy tim mình đập dồn dập không hẳn vì hồi hộp lo âu cho cha, mà vì trong tôi cuồn cuộn dâng lên nguồn nhựa sống đến từ khoảnh khắc hoàn toàn tự do đầu tiên tôi biết tới trong đời.
26 Barley giận dữ. Tôi không thể trách anh ấy, nhưng rõ ràng đây là một trong những sự kiện bất lợi nhất đối với tôi, và tôi cũng cảm thấy hơi bực bội. Tôi càng giận dữ hơn bởi tiếp theo cơn khó chịu ban đầu là một cảm giác nhẹ nhõm thầm kín dâng trào; trước khi nhìn thấy anh, tôi đã không nhận ra mình hoàn toàn cô đơn trên chuyến tàu này, lao tới những gì chưa biết, có lẽ là vào một nỗi cô đơn lớn lao hơn vì không thể tìm được cha, hoặc thậm chí vào nỗi cô đơn vĩnh hằng vì phải mất cha mãi mãi.
27 Barley ngồi trầm ngâm trong cabin của chúng tôi, cằm tì lên đôi bàn tay có những ngón tay thon dài, cố gắng nhớ lại chuyện gì đó về thầy James - nhưng chỉ hoài công.
28 Lần này không phải Barley mà là tôi ngủ gật. Lúc thức dậy, tôi nhận ra mình đang tựa vào người anh, đầu gục lên vai chiếc áo len dài tay kiểu hải quân của anh.
29 Bước xuống một đoàn tàu, dù đó là một chuyến tàu hiện đại, để vào Ga Bắc, cái vũ đài vĩ đại của những chuyến du hành, với các khung sắt và thủy tinh cũ kỹ vươn thẳng lên trời, với vẻ đẹp của không gian hình mái vòm tràn đầy ánh sáng, chúng tôi đã đến Paris.
30 Đúng 4 giờ 02 phút, Barley và tôi đáp chuyến tàu tốc hành đi về miền Nam, đến Perpignan. Barley quẳng hành lý qua bậc thang lên tàu dựng đứng rồi đưa tay ra giúp tôi lên theo.
31 Tôi ngồi yên, rất yên, trên ghế tàu, nhìn chằm chằm vào tờ báo của người đàn ông ngồi đối diện. Tôi cảm thấy mình nên cử động một chút, một cách tự nhiên, nếu không tôi có thể làm hắn để ý, nhưng hắn hoàn toàn bất động, đến mức tôi có cảm tưởng không nghe được tiếng thở của hắn, và tôi nhận ra chính mình cũng thấy khó thở.
32 “Cha mong đợi phòng làm việc của Turgut lại là một giấc mơ phương Đông khác, nơi trú ẩn của một học giả Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng cha đã lầm. Căn phòng ông ta dẫn Helen và cha vào nhỏ hơn phòng mà bọn ta vừa ra khỏi, tuy trần cũng cao như vậy, và ánh sáng ban ngày từ hai cửa sổ làm hiện rõ mọi thứ đồ đạc bên trong.
33 Khi con tàu tốc hành đi Perpignan đã khuất dạng sau rặng cây óng ánh bạc và những mái nhà trong làng, Barley nói, “Xong, hắn đang ở trên con tàu đó, còn bọn mình thì không.
34 Tôi vẫn giữ một số ảnh của cha, chụp trong khoảng thời gian trước khi cha rời Mỹ để đi tìm thầy Rossi, dù suốt thời thơ ấu, khi lần đầu tiên thấy chúng, tôi hoàn toàn không biết chúng cho thấy những gì sau này.
35 “Sau này, khi đã biết Helen trong nhiều tình huống hơn, kể cả những tình huống chúng ta quen gọi là đời thường, cô vẫn không ngừng khiến cha phải ngạc nhiên.
36 Đêm nghỉ tại trang trại ở Boulois, với Barley nằm phía bên kia phòng, là một đêm thao thức nhất mà tôi chưa bao giờ nếm trải. Chúng tôi đi ngủ vào khoảng chín giờ, vì không biết phải làm gì ngoài việc lắng nghe âm thanh lục cục của lũ gà và ngắm nhìn ánh sáng đang mờ dần trên khu chuồng gia súc ọp ẹp.
37 “Quả thực Helen đã rất mệt mỏi, cha đành miễn cưỡng để cô ở lại nhà nghỉ để chợp mắt một lát. Cha không muốn để cô ở đó một mình, nhưng Helen nói rằng ánh nắng giữa ban ngày chắc chắn đã đủ bảo vệ cho cô rồi.
38 “Chuyến bay ngày thứ Sáu từ Istanbul đến Budapest còn nhiều ghế trống, khi chúng ta đã ngồi yên vị giữa các doanh nhân Thổ Nhĩ Kỳ ăn mặc toàn com lê đen, quan chức Hungary mặc áo khoác xám trò chuyện với nhau theo từng nhóm, những phụ nữ lớn tuổi mặc áo choàng xanh và mang khăn trùm đầu - phải chăng họ đang đến Budapest làm tạp dịch, hay đến thăm con gái lấy chồng là những nhà ngoại giao Hungary? Chuyến bay rất ngắn, chỉ đủ thời gian cho cha tiếc nuối chuyến du hành bằng tàu hỏa mà lẽ ra Helen và cha có thể chọn.
39 “Từ khi gặp gỡ Éva, bác của Helen, cha thường nhớ đến bà - dù chỉ gặp mặt bà có ba lần. Có những người chỉ sau một thời gian quen biết ngắn ngủi đã có thể ghi dấu hình ảnh của họ trong ký ức ta sâu hơn nhiều người ta vẫn gặp ngày này qua ngày khác suốt cả một thời gian dài.
40 “Sáng hôm sau, khi thức dậy, cha thấy mình đang nằm ngửa trên chiếc giường nhỏ cứng ngắc, mắt trừng trừng nhìn những bức tượng tiểu thiên sứ mạ vàng, một lúc lâu vẫn không thể nhớ ra mình đang ở đâu.
Thể loại: Tiểu Thuyết, Trinh thám
Số chương: 7