1 Phần 1: Những người cuối cùng thấy họ còn sống
Làng Holcomb nằm trênnhững bình nguyên caotrồng lúa mì Tây Kansas, một vùng hẻo lánh mà người Kansas ởnơi khác gọi là “ở ngoài đó”.
2 Lúc này ông Clutter đang cho Babe ăn lõi quả táo mình ăn, cao giọng chào một người cào rác ở trong bãi thả -Alfred Stoecklein, ngườilàm công duy nhất trú tại nhà ông.
3 “Tớ biết, cậu đang gặm móng tay,” Susan nói, đoán đúng. Dù cố mãi, Nancy vẫn không bỏ được cái thói quen cắn móng tay, cứ hễ lúng túng là cô lại nhấm cho tới tận phần thịt mềm.
4 Có bốn phòng ngủ ở tầng ba, và phòng ngủ của bà là phòng cuối ở đầu cùng của gian đại sảnh trần trụi, gian này chỉ đặt một chiếc giường cũi trẻ con dùngvào dịp các cháu ngoại bà tới thăm.
5 Kenyon đã tự làm lấy cái hòm: cái hòm đựng quần áo cô dâu bằng gỗdái ngựa, gờ bằng gỗ tuyết tùng mà cậu định cho Beverly làm quà cưới. Bây giờ, cậu đang làm trong cái gọi là sào huyệt ở dưới tầng hầm.
6 “Đúng thế đấy,” ông Clutter đáp. Về các khoản thù lao, ông nổi tiếng là người không bao giờ trả tiền mặt. “Đó là cách tôi làm ăn. Khi các vị sở Thuế đến mà hạch hỏi thì những tấm séc đã trả là người bạn tốt nhất của ông đấy.
7 Dick chờ, ăn vài cái kẹo dẻo hạt đậu, sốt ruột rồ máy, bấm còi. Có thể hắn đã đánh giá sai tính cách Perry chăng? Cái thằng Perry, trong cả lũ, đang lên một cơn “sôi máu” thình lình chăng? Một năm trước, khi gặp nhau lần đầu tiên, hắn đã nghĩ Perry là “một tên tử tế” - nếu không có lúc hơi “phét lác về mình”, “đa sầu đa cảm” và “quá ư mơ mộng”.
8 Những người chưa ló mặt
Ngày thứ Hai, 16 tháng Mười một năm 1959 ấy vẫn là một tiêu bản đẹp của thời tiết săn trĩ trên bình nguyên cao trồng lúa mì miền Tây bang Kansas - một ngày vòm trời sáng huy hoàng, lấp lánh như mica.
9 Câu trả lời
Người trẻ tuổi tên là Floyd Wells, hắn ta thấp và gần như không có cằm. Hắn đã toan thử nhiều nghề, làm lính, chăn nuôi, thợ cơ khí, ăn trộm, cái nghề cuối này đã kiếm về cho hắn một bản án từ ba đến năm năm ở nhà tù Bang Kansas.
10 Ngày 16 tháng Mười hai năm 1959, Las Vegas, Nevada. Năm tháng và thời tiết đã bỏ đi mất chữ đầu tiên và chữ cuối cùng - chữ R và chữ S - do đó tạo ra một từ mới có phần nào mang điềm gở: OOM.
11 Paul - tôi bảo nó ra dây phơi lấy vài đôi tất cho Alvin - Paul quay vào đứng cạnh xem tôi cho quần áo vào va li. Nó muốn biết bố đi đâu. Alvin nhấc bổng nó lên.
12 Đang nhâm nhi cà phê nhân giờ nghỉ ở quán cà phê Hartman, bà Clare chánh bưu điện phàn nàn âm lượng rađiô mở bé. “Cho nó to lên đi nào,” bà nói.
Rađiô đang mở kênh phát thanh KIUL của Garden City.
13 Cái Xó
Vẻ trang nghiêm nhà nước và nét gia đình xởi lởi cùng tồn tại trên tầng năm của Tòa án hạt Finney. Trại giam của hạt ở đây cho ra chất lượng hàng đầu, còn Dinh Cảnh sát trưởng, một tòa nhà trông thích mắt nằm tách biệt với nhà tù bởi những cánh cổng sắt và một hành lang ngắn thì cho chất lượng thứ nhì.
14 Phòng xử, một gian buồng bình thường ở trên tầng bốn của Tòa án hạt Finney, có những bức tường trắng xin xỉn và đồ đạc bàn ghế đánh véc ni tối màu. Ghế dành chỗ công chúng có khi phải chứa được đến một trăm sáu chục người.
15 Đôi môi mỏng của Green lượn ra thành một nụ cười cay độc. “Có nhớ anh ấy bị bắt vì gì không?”
“Bị kết tội phá cửa vào một hiệu thuốc. ”
“Bị kết tội? Anh ấy không nhận là có phá cửa vào à?”
“Có chứ, nhận.
16 Hai năm trước đây, Lowell Lee Andrews, một thanh niên mười tám tuổi tướng tá đồ sộ dềnh dàng, mắt kém, đeo kính gọng sừng và nặng gần tạ rưỡi, đã từng là một sinh viên ưu tú chuyên ngành Sinh học ở Đại học Kansas.
17 Sau đó hắn gửi thật, và thư vĩnh biệt của Andrews hóa ra là đoạn thứ chín trong tập thơ “Khúc hát đau thương viết trong sân nhà thờ đồng quê” của Gray:
Niềm tự hào của các huy hiệu, ánh huy hoàng của quyền uy,
Tất cả sắc đẹp đó, tất cả giàu sang từng được cấp cho ta,
Đều như nhau, chờ giây phút không thể nào tránh khỏi:
Mọi con đường vinh quang dẫn đến nấm mồ.