Tìm chuyện

Gõ vào bất kể từ gì bạn nhớ để tìm kiếm Ví dụ: Tên truyện, Tên tác giả, Tên nhân vật...
Để tìm kiếm chính xác hơn, Bạn có thể kết hợp nhiều từ khóa tìm kiếm và đưa vào trong ngoặc kép. Ví dụ: "Từ khóa 1" "Từ khóa 2"
Hệ thống hỗ trợ tìm kiếm với cả tiếng việt có dấu và không dấu

Mật Mã Maya Chương 32 - Part 01

Chương trước: Chương 31



Chương 32

- Ai lồng tiếng chuột Mickey? – Marena hỏi.

- Gượm hẫng, - tôi nói. Tôi muốn ho. Tôi ho.

- Jed? Anh cần uống thêm chút Squirt không?

- Không, cảm ơn, - tôi đáp, - anh không sao, à... Chính Walt Disney là người đầu tiên lồng tiếng chuột Mickey.

- Đúng. Căn bậc hai của nam bằng bao nhiêu?

Tôi đọc cho cô ta kết quả.

- Tên của người cuối cùng ... khoan đã, - Marena dừng lại, - Ana đang gọi, cô ta muốn chúng ta dừng lại ở đây.

- Đến đây là đủ rồi, - giọng của bác sĩ Lisuarte cất lên ngay sau lưng tôi. Bà ta dừng lại một lát.

- Chờ đã. Không, tôi cần trao đổi với phòng thí nghiệm trước đã, - bà ta nói tiếp, hiển nhiên là với Ana qua bộ đàm. - Được rồi, thoát. CTP phải không? Akagi đây, chúng tôi nhận được “ba chín tám” từ Keelorenz.

Tôi phải mất một lúc mới nhớ ra CTP là phòng thí nghiệm Giao thức chuyển đổi ý thức, Akagi là bí danh của Lisuarte và Keelorenz là bí danh của Ana Vergara. Nhưng “ba chín tám” thì tôi chịu không biết gì.

- Được rồi, - Lisuarte nói. Dừng một lát. - Họ đã nhận đủ.

Tôi đoán câu cuối cùng là dành cho Marena và tôi, ý là phòng thí nghiệm đã quét đủ quy trình tư duy của tôi và có thể dừng chuyền tín hiệu được rồi.

- Nghĩa là tôi sắp được gỡ ra? - tôi lừ khừ hỏi.

Họ đáp “phải”. Lisuarte tắt “toa-lét”, tức là cái vòng chụp não to tướng màu trắng trên đầu tôi. Tôi nghe thấy tiếng các cục nam châm kêu rèn rẹt trên rãnh khi chúng chạy chậm dần lại. Ánh sáng trước buổi bình minh đã hé lên ngoài cửa. Marena gỡ các điện cực khỏi người tôi theo kiểu rất gợi tình. Thôi, thế là xong. Phiên bản của tôi, được hình thành sau cuộc hỏi đáp, đã lên đường rồi. Thực ra, nó đã đi, đã đến nơi, đã xong nhiệm vụ và chết từ lâu rồi.

Họ hối hả lôi tôi ra khỏi cân điện của ahau. Bầu trời đã chuyển sang màu xám sẫm và sao đã lặn. Michael và Hitch đang đứng đợi giữa nhịp cầu thang; học giúp Marena đỡ tôi xuống các bậc cầu thang đổ nát, mỗi bậc cách nhau đến hai mươi sáu inch. Tôi cảm tưởng như phải mất một tháng nữa mới xuống đến nơi.

- Tôi tự đi được mà, - tôi nói.

- Phải, nhưng chẳng vững mấy tí, - Marena đáp.

Có một bãi trống dưới chân kim tự tháp và một lối mòn dẫn xuống đồi, đi qua cung điện xuống bờ sông. Tôi đi xiêu vẹo, Ana và Grgur đợi sẵn trên bãi đất nơi tôi và Marina đã làm tí việc nhỏ cách đây mười bốn tiếng. Ana đang nói chuyện với không khí, một tay đặt lên tai.

- Có chuyện gì thế? - Marena hỏi Michael khi lão đã lấy lại hơi. Theo kế hoạch chúng tôi đã bàn, đây là nơi chiếc máy bay Hippo sẽ đón chúng tôi trong trường hợp phải rời đi khẩn cấp.

- Ana nghĩ chúng ta có thể rút đi ngay, - Michael nói. Không như Marena, Lisuarte và tôi, lão đã nghe tất cả các cuộc trao đổi qua điện đàm.

- Sao lại thế? - Marena hỏi.

- Có một đội tuần tra đang tới. Họ nghĩ chúng sẽ đi qua đây.

- Mẹ kiếp, - Marena nói, - nếu chúng không đi qua khu di tích,chúng ta sẽ quay lại đấy sau vậy.

Chúng tôi đứng chờ. Ana vẫn đang nói. Cô ta không giải thích với ai cái gì.

- Không Đời Nào đâu rồi? - tôi hỏi. Michael đáp lão không biết. Gã Commando hình như cũng không có mặt ở đây. Tôi tìm thấy tai nghe, đeo vào và bật lên.

- ... mười sáu tiếng đập, - Ana nói. - Này, các vị đi đâu thế? - cô ta hỏi to lên.

- Tôi cần quay lại cung điện để lấy đồ, - Marena đáp.

- Không được, Asuka, - Ana nói, - không ai đi đâu hết.

- Sao chúng ta không trốn vào đâu đó trong rừng như các nhân viên khác của ES? - tôi hỏi, nhân lúc Ana ngừng nói qua bộ đàm.

- Vì nếu phát hiện ra các thiết bị của chúng ta, chúng sẽ để mắt theo dõi, - Ana đáp. - Chúng ta sẽ phải chạy từ đây đến tận Đường 14. Và ngay cả ở đó chúng ta vẫn có thể bị tóm. Chúng ta đã đề cập đến khả năng đó rồi mà.

- Chắc tôi đã bỏ lỡ buổi học đó, - tôi đáp.

- Dù sao, Hippo cũng là máy bay tàng hình với sóng ra-đa, nó sẽ đưa chúng ta đi mà không gặp rắc rối gì.

- Thế nếu chúng...

- Nếu chúng đi vòng qua khu di tích thì hai ngày nữa chúng ta sẽ quay lại và đào, - Ana cắt ngang, - đừng hỏi thêm câu gì nữa nhé.

Tôi ngậm miệng lại. Điều cô ta không nhắc đến là nếu đội tuần tra tìm thấy đồ đạc và máy móc của chúng tôi thì còn chán chúng tôi mới quay lại đây được. Mà Ix lại là nơi duy nhất Jed 2 sẽ tự chôn mình. Hay tôi nên nói là đã tự chôn mình. Nếu không đào các hầm mộ hoàng gia lên thì chúng tôi không thể biết anh ta có làm được điều đó hay không. Và cũng sẽ không có ký ức nào của Jed 2 được đưa lại vào não tôi. Tôi sẽ giữ lại cho riêng mình toàn bộ những gì tôi được chứng kiến ở quá khứ. Nếu các bạn hiểu ý tôi. Mẹ kiếp. Mặt khác, nếu chuyện đó xảy ra thật thì ký ức của ông ta cũng có thể đã xóa ký ức của tôi, ý tôi là ký ức mà tôi vừa tạo ra vài phút trước, hoặc từ một thời điểm nào đó trong lúc tải xuống, ký ức của chúng tôi được tách ra và...

- Nó đây rồi, - Ana nói, - hai phút nữa nhé.

Tôi gật đầu. Lo chuyện ấy sau vậy.

Một cái bóng lớn, sắc nét, rung rung trên đầu chúng tôi. Một tiếng bùm, sau đó là tiếng động cơ khởi động rền rĩ và tiếng nổ xình xịch; mặt nước phẳng lặng phía ngoài đám lá hoa súng gợn lên da cá mập. Cái bóng ấy cứ như hiện ra từ một nếp gấp trong không khí, một đốm trắng nằm giữa một cánh tay dài, thẳng, đu đưa chậm rãi như mũi kim trên la bàn. Ra đây chính là Hippogriff, - tôi nghĩ. Hẳn là nó có một hệ thống đánh lửa nhanh nào đấy để lượn mà không cần động cơ. Ana lội về phía nó với những động tác tuân thủ nghiêm chỉnh sổ tay dành cho lực lượng đặc nhiệm. Bọn lính tráng lúc nào cũng nghiêm túc quá thể. Cô ta đưa tay lên, tóm láy một khoang chở hai người bằng nhựa dẻo trong không trung. Ai đó đi ngang qua tôi, biến vào đám khói xăng. Marena nắm lấy tay tôi và chúng tôi cùng lội ra giữa xoáy nước nhỏ đang sôi réo. Ana đẩy chúng tôi vào cái chuồng năm góc. Cô ta vặn ngoéo cái cẳng chân dính đầy bùn của tôi khi tôi còn đang đứng khiến tôi gần như ngã quỳ xuống nền lưới. Dây rợ màu da cam giăng chằng chịt. Tôi ngước lên. Chiếc máy bay to đùng ngã ngửa, hình thù dị hợm đang lơ lửng cách đầu tôi năm mươi feet, đu đưa khe khẽ. Nó không muốn hạ thấp hơn vì cánh quạt có thể vướng vào cành cây. Các cánh quạt méo mó nhô ra từ các rãnh tỏa nhiệt dọc thân máy bay nom như khe mang của loài cá mập.

- Từ từ đã, Không Đời Nào đâu? - tôi hỏi.

- Đẩy một chuyến, kéo lên đi, - Ana nói. Chúng tôi được kéo giật về phía một khoang cửa lớn trên bụng máy bay. Tôi cố nhìn về phía cung điện để xem có Không Đời Nào hay ai đó ở đấy không, nhưng chúng tôi bị lắc lư nhiều quá. Tôi nắn các túi quần áo. Điện thoại của mình đâu rồi nhỉ? - tôi phân vân. Tốt nhất là họ đừng bỏ quên nó lại đó. Hai bàn tay đi găng màu da cam kéo cái khoang vào một rãnh tối. Có cái mùi nằng nặng của dầu máy, vinyl clorua và vải da cũ. Anh chàng đi găng tháo các cuộn dây, kéo tôi và Marena lên mặt sàn có đệm và thả cái khoang xuống. Tôi ngồi dạng chân dạng tay trên thảm và nhìn lên chủ nhân của đôi găng. Một gã cao lớn. Anh ta đội một cái mũ có camera nhưng lưỡi trai được đẩy lên và tôi nhận ra đó chính là viên phi công cứu hộ, hay chính xác hơn, theo các dấu hiệu trên trang phục, là WSO, tức sĩ quan chuyên trách hệ thống vũ khí - mặc dù máy bay của chúng tôi không hề có vũ trang - đã đi cùng chúng tôi trên chuyến bay từ Stake đến Pusilha. Phi đội này vỏn vẹn có hai người.

- Mời các vị về chỗ ngồi như chuyến bay trước, - anh ta nói cứ như chúng tôi đang ngồi trên máy bay của hãng hàng không Virgin Air không bằng. Nó hơi tối, nhưng mọi vật đều được chiếu sáng bằng đèn đi-ốt nên anh vẫn có thể phân biệt được thứ gì là thứ gì, nghĩa là nếu anh đã biết chúng là thứ gì. Tôi đứng lên, và trước khi Marena kịp tóm lấy tôi, tôi đã đập bốp đầu vào cái trần xốp bọc ni lông. Marena dẫn tôi tới chỗ khoang ghế bên tay trái. Nhìn nó hệt như chiếc ghế an toàn của trẻ con, có điều to đùng. Một thanh ngang màu xanh lơ xấu xí hạ xuống ngang tầm mắt tôi, trên viết dòng chữ in hoa màu da cam: KIểM TRA KHóA AN TOàN và có cả một bàn phím tiêu chuẩn. Marena ngồi đối diện tôi; hai chúng tôi đang ngồi sát nhất vị trí lẽ ra là vách ngăn giữa buồng lái và khoang hành khách. Tôi nhìn quanh. Các ô cửa sổ hành khách đã bị che kín, tôi đoán là vì chiếc máy bay đang thi hành nhiệm vụ quân sự, nhưng tôi nhìn thấy một phần tấm kính chắn phía trên đầu viên phi công trong khoang lái và một khe của khoang cửa sổ gầm mạn trái, bắt đầu từ ngay gần mắt cá chân tôi. Khi các cánh quạt xua tản bớt một phần sương mù, tôi có thể quan sát thấy một mảng tối đen của dòng sông. Michael và Lisuarte lồm cồm bò lên qua khoang cửa gầm và đi ngang qua chúng tôi. Michael được xếp chỗ gần đuôi máy bay để phân tán đều trọng lượng. Tiếp theo làn Hitch và Grgur. Hắn leo lên ít nặng nhọc hơn tôi tưởng nhiều và cúi xuống gần Marena một lúc, thì thào cái gì đó, trước khi đi xuống cúi ngồi đối diện với Michael. Anh cùng WSO ngồi vào chỗ của mình bên phải viên phi công. Ana lên cuối cùng, kéo theo cái khoang. Tôi đoán gã Commando ở lại dưới bụi rậm. Cô ta lật một chiếc ghế phụ ở giữa và lùi về phía sau so với ghế của hai phi công. Cô ta định thắt dây an toàn song lại thôi, đưa tay vòng ra sau như định ôm choàng lấy tôi. Nhưng hai bàn tay đã đưa lên quá đầu tôi.

Tôi cảm thấy áp lực hơi đè lên màng tai và chìm vào sự yên lặng; những tiếng đập khe khẽ như thể một con chim ruồi đang vỗ cánh quanh tôi, với một tiếng rít mảnh và những tiếng bíp lặp đi lặp lại hai giây một lần như thể tiếng châu chấu gọi bạn. Cô ta vừa kéo một chiếc mũ chụp xuống đầu tôi. Nó có lưỡi trai như bình thường nhưng có thêm một tấm kính trượt xuống, cho anh nhìn thấy thêm các hình ảnh video qua hai mắt kính của chiếc mũ. Khi chúng tôi sử dụng chiếc máy bay này lần đầu tiên ở Belize, họ đã khuyên chúng tôi nên “triển khai” cặp kính AVRV này mọi lúc, phòng khi có kẻ tấn công chúng tôi bằng tia laze gây lóa mắt. Ban đầu nó mờ mờ ảo ảo, nhưng một lúc sau, cặp kính điều chỉnh thích hợp với mắt tôi và tôi bắt đầu nhìn mọi vật dưới một góc độ khác. Hình ảnh sắc nét hơn đời thực, gần giống như nghe tiếng đàn vi-ô-lông qua tai nghe thay vì nghe trực tiếp âm thanh ngọt êm trên dây đàn. Thêm vào đó, mọi hình ảnh đều sáng và tương phản rõ hơn - tính năng này được áp dụng khi nhìn trong bóng tối - và vì hai ống kính camera trên mũ được đặt cách xa hơn khoảng cách giữa hai mắt nên nó làm phóng đại khoảng cách giữa mọi vật. hệt như trong phim hoạt hình 3-D kiểu cũ trong đó hình ảnh hoặc đập vào mắt người xem hoặc lùi tít đến hàng thứ Z. Và cuối cùng, chỉ để trải nghiệm thêm phần rối rắm, trên mọi thứ tôi nhìn thấy đều lởn vởn một hàng chữ, nhấn mạnh vào những vị trí quan trọng trên máy bay để chỉ ra các tính năng an toàn, các dấu hiệu chỉ dẫn, thậm chí chú thích cả phi đội và hành khách. Đương nhiên, nó cũng có một dòng chữ chạy dưới chân màn hình, trình bày những con số mà tôi không sao đoán được là cái gì. Có một bản đồ đường bay nho nhỏ nhưng khá rõ dưới góc phải. Nó cho biết chúng tôi sẽ bay theo hướng bắc – đông bắc đến Belize, ngang qua cửa sông Sarstoon, tức là con sông tạo thành đường biên giới phía nam. Hừ, xem ra dễ dàng đây, - tôi nghĩ. Sẽ không có trục trặc gì đâu.

Không Đời Nào vẫn ở ngoài kia ư? - tôi lại phân vân. Liệu cậu ta có gặp rắc rối gì không? Tôi đã kéo cậu ta vào cái trò chết dẫm này. Gần như bản năng, bàn tay trái của tôi đưa lên bàn phím trên thanh ngang và nhấn các phím cho đến khi thấy có tiếng động phát ra. Một âm thanh mới len vào thế giới bị bao bọc kín mít.

- Hê, khoan đã, chờ một giây nào, - tôi nói nhưng không nghe thấy giọng mình. Tôi tìm thấy phím MIC và bật lên.

Tôi chuyển sang kênh riêng của Marena.

- Marena? - tôi gọi.

- Chào anh, Jed. Anh ổn không? - cô ta trả lời.

- Có, - tôi uể oải đáp.

- Anh hiểu em nói gì không?

- Có. Anh ổn. Anh ổn. Anh ổn. Không Đời Nào vẫn đang ở khu di tích à?

Giọng Ana cắt ngang:

- Yêu cầu tất cả không đàm thoại, - cô ta ra lệnh. Đồ chết tiệt, - tôi nghĩ bụng. Marena tiếp tục nói.

- Jed, chúng ta không thể tin anh ta được. Có lẽ anh ta đã rời đi rồi.

- Không có chuyện ấy đâu, - tôi đáp, nhưng chỉ vừa nói hết từ “không” thì Ana đã tắt phụt mic của tôi. Tôi cởi mũ ra, được nếm ngay sự tối tăm và tiếng ồn bên ngoài, liền nghĩ có nó thì tốt hơn và đội lại. Tôi chăm chú nhìn vào dòng chữ DANH SÁCH ĐÀM THOẠI nằm góc trên bên trái màn hình, đưa con trỏ vào kênh đàm thoại của viên phi công và bật lên.

- ... các ngọn cây, - một giọng nói cất lên.

- Xong, chúng tôi lên hết rồi, đi thôi, - tiếng Ana nói. Tôi cảm thấy mình đang rơi xuống, bị hút qua một vết nứt trên ghế và chìm xuống lòng đất khi chiếc Hippo bắt đầu cất cánh theo kiểu hết sức khó chịu với phần đuôi chổng lên như đuôi con cá voi. Áp lực không khí đột ngột tăng khi các cánh cửa sập lại. Bên ngoài cửa sổ gầm, các tán cây lùi dần và biến mất khi chúng tôi bay vào một đám mây mưa thấp. Các hạt nước bậu kín tấm kính. Tiếng Marena lại vang lên.

- Jed, nếu anh có cần gì, hãy dùng kênh 4, - cô ta nói.

Tôi tìm thấy và bật lên.

- Không Đời Nào không tự dưng bỏ đi đâu, - tôi nói.

- Jed, có lẽ anh ta bị đội tuần tra cản đường về, - Marena nói.

- Anh không nghĩ thế, - tôi nói.

- Dù sao thì anh ta cũng chưa bao giờ thực sự tin tưởng chúng ta. Thôi nào...

- Ý anh là...

- Chúng ta sẽ gọi cho anh ta khi quay lại, - Marena nói, - bây giờ không phải lúc tranh cãi chuyện này.

Chúng tôi bay vào một luồng không khí bớt dày đặc hơn và lượn vòng. Cơn buồn nôn lại trào lên cuống họng tôi. Bên ngoài cửa kính khoang lái, sương mù rẽ ra và không gian như bị bẻ cong đi như thể chúng tôi đang ở trong mắt một con cá. Đám mây đen thứ hai trải rộng bên trên và phía trước. Tôi rụt chân lại khi thấy một ngọn cây cọ suýt chạm vào cửa kính. Chúng tôi đang bay thấp hơn tôi tưởng. Tôi nhìn sang Marena nhưng cô ta không nói gì, chỉ tỏ vẻ sợ hãi nên tối ấn vào DANH SÁCH - QUAN SÁT, vào mục TỔ LÁI - HTDKVK - QSLT - nghĩa là hệ thống điều khiển vũ khí và quan sát liên thông – rồi ấn chữ WSO. Hệt như tôi vừa đổi đầu cho người khác; tôi đang ngồi trên ghế trước, nhìn thấy chính xác những gì WSO đang nhìn thấy. Tôi đoán ý tưởng của thiết bị này là cho phép người đội bất cứ chiếc mũ nào cũng có thể tiếp cận với hình ảnh mà người đội một chiếc mũ khác đang nhìn thấy; như vậy, cả đoàn đều có thể nhìn bằng cặp mắt của viên phi công và biết tình hình bay ngay lập tức. Hoặc viên phi công cũng có thể nhìn thấy những gì người ngồi cuối nhìn thấy, hoặc gì gì đó. Cả một lô thông tin hiện lên, nào vec-tơ, nào vận tốc, nào áp suất, nào nhiệt độ, các ô cửa sổ hiển thị TỐC ĐỘ BAY 248KM/H, ở ĐỘ CAO 381M SO VỚI MỨC NƯỚC BIỂN, 28,2M SO VỚI MẶT ĐẤT, và các dòng chữ chạy liên tục nắc đi nhắc lại những dòng cảnh báo như TRUYỀN PHÁT NỘI BỘ, ĐÂY KHÔNG PHẢI THÔNG TIN HIỂN THỊ RỘNG RÃI, thậm chí cả những dòng nhắc nhở không nên xem nếu bị chứng động kinh. Tầm mắt hướng lên trên, tôi thử cúi đầu xuống nhưng dĩ nhiên chẳng thay đổi được gì. Nó phụ thuộc hoàn toàn vào cặp mắt của anh chàng kia và anh ta đang tập trung nhìn về phía chân trời ảo (Chân trời ảo: Đường tương tự như đường chân trời thật nhưng nằm lệch lên trên hoặc xuống dưới) vẽ thành một vệt màu xanh da trời trên nền mây. Tôi tìm được kênh đàm thoại của WSO.

- ... no te preocupes amorcita, este es el caballo (Đừng lo em yêu, con ngựa ấy đây), - anh ta đang nói. Đó là điểm nút của một câu chuyện khôi hài nào đấy.

- Sí, pues.. .(Ừ, thế thì...), - một giọng đặc Guatemala đáp. Xem ra anh chàng WSO đang tán phép qua điện đàm với người kiểm soát không lưu địa phương như bạn bè lâu năm. Biết đâu chuyện này rốt cuộc sẽ ổn thỏa. Chắc họ phải dàn xếp trước với người Guatemala. Nhưng vậy thì những kẻ suýt đụng phải chúng tôi ở khu di tích là ai? Chỉ là một đội tuần tra nào đó không tham gia vụ dàn xếp ư? Chắc họ không muốn đưa quá nhiều người vào danh sách nhận tiền.

Chúng tôi bay gần như thẳng hướng đông, qua những triền dốc cao phía trên thác nước và rẽ sang hướng đông nam ở đúng quãng dòng Chisay đổ vào sông Río Cahabón. Một vách đá vôi xám xịt hiện ra trước mắt chúng tôi và thay vì vượt qua, viên phi công lại bay vòng dưới thấp và tiếp tục bay là là giữa dòng sông khiến tôi có cảm giác như đang trượt tuyết chứ không phải đang bay. Các tán cây như bao phủ lấy chúng tôi, nhưng rồi chúng tôi vượt qua và bay vào khoảng không trải rộng.

Một giọng nói khác xuất hiện trên kênh đàm thoại chính:

- Es este el vuelo 465-BA del poptún? (nghĩa là “Các anh có phải chiếc 465-BA khởi hành từ Poptún?”)

Chỉ dẫn nhận dạng cho biết đó là giọng của một người gọi từ căn cứ Gúzman của sân bay quân sự Guate City.

- Correcto (Phải), - anh chàng WSO đáp.

- Perdone la molestia, mas el OC dice qué pasa? (Xin lỗi đã làm phiền, nhưng chỉ huy hỏi có chuyện gì xảy ra vậy?)

- Có vụ việc gì đó bất ổn ở nam Chisec, - anh chàng WSO trả lời bằng tiếng Tây Ban Nha, - hạ sĩ Olaquiaga ở căn cứ Portún ra lệnh cho chúng tôi ứng phó.

- Tốt thôi. Tuy nhiên hình như hôm nay các anh đến muộn rồi.

- Nói thật, đó là lý do vì sao chúng tôi đang quay lại.

Á à, - tôi nghĩ. Té ra anh ta đang giả vờ chúng tôi là máy bay quân sự của Guatemala, cố lừa các kiểm soát viên không lưu càng lâu càng tốt. Điều đó có nghĩa là chúng tôi không hề có tay trong trong quân đội Guatemala.

Chiếc Hippo leo lên độ ột ngàn feet khi bay qua đầu nguồn sông Oxec, nằm giữa dãy Cerro Tabol bên tay trái và sườn tây của dãy Sierra de Santa Cruz đồ sộ bên tay phải.

- ... đọc số hiệu chúng tôi cấp đi, - giọng gã Guatemala nói.

- GAC 465 BA, 20380-821809-234874211, - anh chàng WSO đáp.

- Chúng tôi phải kiểm tra lại, bằng không họ sẽ gây khó khăn cho anh khi bay qua biên giới.

- Tôi sẽ gọi cho họ.

- Sao các anh không dừng lại một giây? Bay chậm lại!

Tôi chuyển sang kênh 4, kênh đàm thoại của Marena và gọi. Cô ta trả lời. Tôi bảo cô ta rằng hình như phía Guatemala đã bắt đầu ngờ vực.

- Đó chưa chắc đã là vấn đề đâu, - cô ta đáp, - họ canh chừng các chuyến bay đến chứ không phải các chuyến bay đi.

- ... nhưng sao lại là hướng này? - một giọng Guatemala khác hỏi.

- Có khả năng một vài tên khủng bố đã rời đi bằng xe tải sáng nay, - anh chàng WSO bịa đặt, - ông ta muốn chúng tôi thử xem có thể phát hiện được chúng ở biên giới hay không.

- Thôi, được rồi, nhưng chúng tôi phải thu thập thông tin về mọi chuyến bay gần DMZ, - viên sĩ quan kiểm soát không lưu nói.

- Anh nên gọi cho Olaquiaga, - anh chàng WSO nói và bắt đầu đọc cả một loạt số điện thoại.

- Ông ta không ở căn cứ đó, anh phải gọi cho sĩ quan chỉ huy ở đó.

- Anh chuyển máy cho tôi được không? - anh chàng WSO đề nghị.

- Anh phải gọi bằng tần sóng của các anh.

- Tôi sẽ làm.

Anh ta tắt radio. Viên phi công - người tôi đoán là không bao giờ lên tiếng nếu không cần thiết - xuất hiện trên kênh KếT NốI TOàN Bộ. Tức là anh ta đang nói với toàn bộ hành khách trên chiếc Hippo.

- Xin thông báo, - anh ta nói, - chúng ta chuẩn bị tăng tốc.

Nhưng anh ta chưa kịp nói xong thì đầu tôi đã bị ấn dính vào cánh phải của chiếc ghế và chỗ da chùng trên hai má bị kéo ra sau thêm bốn hoặc năm đơn vị lực G. Anh ta vừa tắt cánh quạt và khởi động động cơ phản lực.

Thế là hết cả lén lút, - tôi nghĩ.

- Chờ một giây đã nào, - tiếng của viên sĩ quan kiểm soát không lưu Guatemala.

Giọng Ana hỏi:

- Anh nghĩ sao?

- Họ không biết mình đang làm gì đâu, - viên phi công đáp, - ta cứ duy trì tốc độ này.

Bàn tay phải của anh ta xoay nhẹ cần điều khiển nằm giữa hai chân.

Đám người Guatemala lại gào lên:

- 465 BA, căn cứ Gúzman CG đây, các anh đang làm gì thế?

Chúng tôi không trả lời.

- Xin lỗi, - viên sĩ quan kiểm soát không lưu nói, - các anh phải xin chỉ thị mới hoặc quay đầu và hạ cánh ở đây.

- No me quiebres el culo (Đừng làm tôi cuống lên), - anh chàng WSO nói, - không phải anh bảo tôi quay lại đấy chứ?

- Xin lỗi.

- Olaquiaga se va a cagar (Olaquiaga sẽ ỉa đùn ra mất).

- Yo no te puedo asegurar que llegues salvo (tôi không thể đảm bảo an toàn cho các anh đâu), - giọng nói kia trả lời, - Te van a chingar por el culo. Agarra la onda (Họ sẽ cho các anh toi đấy. Thôi, chấp nhận đi).

Anh chàng WSO im lặng một lúc.

- Bueno, reconocido, Guzman (Tốt thôi,đồng ý, Guzman).

- Bueno (Tốt), - giọng nói kia trả lời và ngừng liên lạc.

Nhưng chúng tôi vẫn bay tiếp. Trên bản đồ đường bay, hành trình của chúng tôi đổi hướng. Chúng tôi bay xuống phía nam về phía hồ Izabal rồi bay ra Mar de Ias Antillas, tức biển Carribe. Tôi đoán ý định của viên phi công là làm cho họ tưởng chúng tôi đang quay về rồi sẽ tiếp tục hành trình, bay là là trên mặt nước, nơi không có các thiết bị phát hiện máy bay lớn.

 

Loading...

Xem tiếp: Chương 32 - Part 02

Loading...

Bạn đã đọc thử chưa?

Xúc Tác Hoàn Hảo

Thể loại: Tiểu Thuyết

Số chương: 31



Hoàng Hậu Đến Từ Tương Lai

Thể loại: Truyện Teen

Số chương: 19


Phiêu Miểu Chi Lữ

Thể loại: Tiên Hiệp

Số chương: 297


Tuyết Hoa Và Cây Quạt Bí Mật

Thể loại: Ngôn Tình

Số chương: 19