Mật Mã Maya Chương 10 - Part 02
Chương trước: Chương 10 - Part 01
Chương 10
- Tốt thôi, - tôi đáp. Tôi chuẩn bị phun ra câu gì đó nhạt nhẽo hoặc ngu xuẩn. Nhưng Marena đã cứu tôi
- Nhưng Jed này, tôi phải ở lại đây thêm vài phút nữa, - cô ta nói. Chắc họ sắp sửa bỏ phiếu về việc của tôi đây. Cô ta dẫn tôi ra cửa.
- Ấy, ghìm cương lại đã, - Lindsay nói. – Để tôi đưa anh cái này. Kể ra thì tôi đang phân phát hơi quá tay. Nhưng tôi không dừng được. Niềm kiêu hãnh về đứa con đầu tiên mà.
Ông ta với một chiếc cặp da lợn nhỏ ở ngăn trên cùng của giá sách đặt trên bàn và bật nắp ra. Một thiết bị đọc sách điện tử chuyên dụng nằm bên trong. Ông ta dùng bút điện tử gắn trên con dao Thụy Sỹ đa năng để ký lên màn hình. Ông ta đưa nó cho tôi.
- Ồ, hay quá, cảm ơn ông, - tôi nói. Chữ ký của ông ta có màu xanh đen với những chấm vàng lấp lánh chạy trên nét chữ giống như những bong đèn trên mái rạp hát kiểu cổ, và tôi mất một giây để đọc dòng chữ bên dưới: TINH THẦN ĐỒNG ĐỘI NHỮNG BÍ QUYẾT HUẤN LUYỆN CỦA MOSES, JESUS, LOMBARDI VÀ JACKSON Những lời khuyên sáng suốt bất hủ về phương pháp làm việc theo nhóm giúp bạn “lên chân” Trong công việc, gia đình và cuộc sống nội tâm Tác giả: Doanh nhân Lindsay R. Warren Với lời tựa của giáo sư tiến sỹ Stephen Covey.
Tôi kéo thanh cuộn xem lướt qua cuốn sách để tỏ vẻ quan tâm. “Chế ngự sức mạnh của nỗi đau” – đó là tựa đề của chương một. Những mẩu quảng cáo nhỏ cứ nhảy vào khắp các góc màn hình, chào bán đủ thứ từ phiên bản nghe nhìn của chính cuốn sách này cho đến phiên bản dành cho lức tuổi thiếu nhi, phiên bản đọc bằng tiềm thức, các tài liệu giảng dạy liên quan các khoá học, hội thảo, khu di dưỡng tinh thần, văn phòng cho thuê, tranh cổ động, vòng đeo tay và một loạt những thứ gì đó được gọi chung là “sự khuyến khích”. Rặt những thứ dành cho thằng nào nhẹ dạ cả tin, - tôi nghĩ. Chương 2 – Những khái niệm đơn giản giành cho người mới vào nghề. Chương 3 – Chế ngự sức mạnh của ảo giác.
- Chúa phù hộ các vị, - Lindsay nói.
Chúng tôi lại phải làm đau tay nhau một vòng trước khi tôi có thể đi. Tôi lại lần mò quay ra qua các căn phòng trống. Bỏ mẹ, - tôi nghĩ. – họ không ưa mình rồi. Mình nhìn ngu một và ăn nói ngu bằng hai ở trong ấy. Họ sẽ bỏ phiếu cho Sic mất . Toi thật rồi.
Khoang Cực VIP trống không. Tiếng của cô phóng viên Anne-Marie vẫn văng vẳng đâu đó, tiếp tục câu chuyện rằng thành phố Orlando một thời hạnh phúc và may mắn giờ đã trở nên hoang tàn và chết chóc. “Nhưng những hậu quả lâu dài về kinh tế, xã hội chỉ mới bắt đầu…”. Tôi lại gần cửa sổ, ối giời, nơi này rộng mới khiếp chứ. Có thể đặt vào đây cả hai trung tâm nghiên cứu vũ trụ ở Salt Lake và vẫn còn đủ chỗ cho cung điện Taj Mahal và vài miếng bánh pizza nữa. Đường xe điện rất bằng phẳng, chạy quanh theo hình tròn, vì vậy khu đất nom cân đối một cách hoàn hảo khi nhìn từ đây, lại thêm một vài ảo giác khiến nó càng giống một hình chảo ô-van khổng lồ bị lật úp. Tôi tợp thêm một ngụm sô-cô-la, đặt cái ca xuống và xoè hai tay tựa vào cửa kính, cố ghìm cảm giác hồi hộp.
¿Y ahora que? Giờ thì làm sao đây?
- Chào anh, - tiếng Marena vang lên sau lưng tôi. Và chưa cần quay lại, chỉ nghe giọng nói cô ta thôi, tôi đã biết là sống rồi. Mình được chọn rồi, tôi nghĩ thầm, mình sẽ được thấy nó, mình ở đó rồi. Tôi cảm giác như Marie Curie lúc nhìn xuống mẩu chất phóng xạ nặng có một phần mười ngàn gam nhưng sáng chói hơn cả mặt trời. Ta là thần Prô-mô-tê thứ hai! Thật sung sướng.
Tôi quay người lại. Marena đưa hai ngón cái lên.
19
Campeche là một thành phố vàng vọt của bang Yucatán, Mexico, với cái vịnh nằm không đúng chỗ. Phố 55 là một con phố chật hẹp, nóng bức, đầy tiếng còi xe buýt và mùi rác rưởi. Thứ âm thanh mà họ gọi là nhạc rakjano – tôi thì đoán đó là một loại nhạc rốc với bốn trăm nhịp nện trong vòng một phút - vẳng ra từ một chỗ nom có vẻ như cửa hàng tạp phẩm. Tôi bước vào, mua bốn dây nước trái me, mỗi dây sáu hộp, năm túi malvavisco - tức là kẹo dẻo, - năm cây nến to và cả một tút thuốc lá ba số, tất cả đựng trong một chiếc túi giấy màu nâu như cách đây hàng chục năm. Tôi đi bộ sang bên kia đường, bước qua một cánh cửa nhỏ nằm ở góc phía nam nhà thờ Iglesia de San Francisco. Mặt tiền và phần lớn gian giữa giáo đường được xây từ năm 1694 nhưng mới được quét sơn lại, tối thiểu là lần thứ một trăm, vì vậy, trông nó như một cây bu-lô vừa thay lớp vỏ mới. Bên trong thì ám cái mùi hương lành lạnh và nhạt nhẽo thường thấy trong các nhà thờ. Trước khi kịp suy nghĩ, tôi đã nhúng tay vào bình nước và làm dấu thánh. Xin thề những gì con nói là sự thật, - tôi nghĩ trong đầu. cái thói quen phải giói từ hồi nhỏ đến giờ vẫn không bỏ được. Cha Manuda vẫn đang đứng cạnh bệ thờ để thử bộ loa đài mới - được mua bằng tiền của chúng tôi, tôi đoán vậy – nhưng chiếc âm-li lớn được đặt quá gần mi-crô nên khi ông ta thử đánh một nốt cao trên cây đàn, nó dội ầm ầm lên khắp các mặt tường đá được sơn hồng. Ông ta không nhìn tôi. Tôi đi qua hai bà xơ già đội khăn trùm và khoác áo chùng trắng rộng thùng thình, đó là hai trong số vài nữ tu còn sót lại của dòng thánh Clares Nghèo Khó, trước kia từng rất đông đảo. Theo những gì tôi được biết, trong mấy trăm năm trở lại đây, dòng tu này đã tự làm mình lụn bại vì từ chối thỏa hiệp vấn đề giảm bớt khổ hạnh. Chắc họ hơi quá kiên tín và các bà xơ đã dành hết thời gian để câm lặng, quỳ dưới sàn đá, ăn cháo lúa mạch suông và và thủ dâm với nhau. Ngoài tôi ra, khách viếng thăm chỉ còn hai bà già người Tzotzil quấn khăn len, mặc huipile (Bộ trang phục đặc trưng của người Maya Tzotzil) ba mảnh dệt màu đỏ và xanh lá cây. Chỉ là trang phục thường nhật. Bên ngoài vòm cửa, bốn con chim bồ câu xơ xác lượn quanh.
Tôi đi qua gian giữa lên cung thờ ngang trên tầng hai và dừng lại trước một bức tranh khắc gỗ còn khá mới họa hình thánh Teresa xứ ávila, nữ thần bảo hộ của cờ Hiến tế (tôi nghĩ là đã nói chuyện này rồi, nhỉ?). Bà cũng là vị thánh bảo trợ ôn cờ vua và những người mắc chứng đau đầu, nhiệm vụ cuối cùng chắc khiến bà ấy bận rộn phải biết. Tôi cắm một cây nến lên giá, thắp lên bằng chiếc bất lửa của Không Đời Nào và đặt bốn cây còn lại bên cạnh. Tôi đi sang cung thờ ngan trên phải và bước vào một phòng nguyện nhỏ.
Căn phòng bị choán bởi một cỗ quan tài màu kem đã rạn nứt, nắp bịt kín nhưng hai bên có hai ô kính. “El mero ataud della santísima Abadesa Soledad”, một vì thầy tế đã viết dòng chữ đó, nó có nghĩa là “Quan tài của Nữ trưởng tu viện Soledad được Chúa che chở”. Bà ta là một vị thánh của địa phương không được nhắc đến trong kinh sách. Lúc này chỉ có hai chúng tôi ở đây. Tôi cúi mình xuống, và mặc dù tôi có vấn đề với các bà xơ từ hồi còn nằm ở bệnh viện từ thiện ở San Cristobal nhưng tôi vẫn phải cố gắng lắm mới ghìm được cảm giác thúc giục muốn quỳ xuống. Qua nhiều thế kỉ, tấm kính đã mở hết cả, nhưng tôi vẫn có thể trong thấy một cái đầu nhỏ trơ sọ như của đứa trẻ lên năm, được trùm khum khum dưới một tấm ren móc hình mạng nhện rất nghệ thuật, với lớp da vàng xỉn như miếng bột nhào dùng làm vỏ bánh hoa quả, trũng xuống quanh hàm răng xám xịt nhô lên. Ý nghĩ bỏ chạy ra ngoài xuất hiện nhiều lần trong đầu tôi, nhưng tôi đã dùng đến mánh “có cái đếch gì đâu” và cuối cùng cũng vượt qua được. Thực ra, tôi chỉ cần tự nhắc đi nhắc lại với mình một cách đầy tin tưởng rằng: “Có cái đếch gì đâu cơ chứ, đời chẳng qua là thứ bỏ đi”, thậm chí chẳng cần đến bài hít thở đặc biệt để trấn tĩnh.
Tôi ra khỏi đó, đi men theo lan can thánh đường sang phía bên kia, chỗ sau bệ thờ. Mình đúng là thằng khờ khạo, tôi nghĩ. Họ đâu có một thứ kỳ công đến thế. Nhưng kiểm tra cho chắc chắn cũng chẳng hại gì. Dù sao đây cũng chỉ là một cuộc diễn tập thôi, tôi nghĩ. Tình hình đã được kiểm soát. chẳng có gì to chuyện hết. Đừng sợ. Guarde sus pantalones (Giữ lấy, đừng để tụt quần - tiếng Tây Ban Nha)
Ổn rồi.
Cuối cung thờ ngang phía nam có một cánh cửa thép nho nhỏ, tôi mở cánh cửa đó ra và bước vào khu nhà ở cũ kỹ dành ục sư, tự nhiên cứ như đây là nhà tôi vậy. Phía cuối khu nhà có một khoảnh sân trong và cuối khoảnh sân đó là một cái chái trước kia từng là tu viện của các nữ tu Nghèo Khó. Tôi đi theo lộ trình đã diễn tập vài lần, leo mười tám bậc cầu thang nhỏ xíu zích zắc để lên tầng hai, chỉ là một căn sảnh dài, trần thấp với năm cánh cửa nhỏ ở mỗi bên.
Grgur đang ngồi thườn thượt trước cửa căn phòng số 4, xỉa ngón tay lên bàn phím một chiếc máy tính xách tay trông như của quân đội. Hắn diện một chiếc áo phông có cổ, quần dài màu xanh nước biển xám hiệu Ralph Lauren, cứ như giám độc phụ trách một tuyến đường biển không bằng. Tôi vẫy tay. Hắn gật đầu, mắt vẫn giương trừng trừng. Mừng làm sao khi có anh cùng tham gia, - tôi nghĩ bụng, - anh làm không khí ở đây sáng bừng hẳn lên đấy! Một đống máy móc các loại bày la liệt trong sảnh, trong đó có hai màn hình rộng ba mươi inch, hai cái hộp có vẻ như thùng loa cỡ lớn, một thanh thép dài bốn feet có tay cầm và hai món đồ gì đó đặt trên giá ba chân, nom như chảo ra-đa di động thông thường, tức là những đĩa hình parabol nông làm từ plexiglas (Một loại thủy tinh hữu cơ trong suốt, nhẹ, bền thời tiết), đường kính khoảng ba mươi inch, với vài chiếc hộp lớn hình trụ bọc xốp đặt phía trước, chỗ đáng ra dành cho chiếc micrô. Tôi đi vòng qua Grgur để bước vào một căn phòng màu trắng bé tí tẹo. cửa sổ để mở cho lũ ruồi bay vào, nhưng nơi này vẫn giống một phòng tắm hơi mốc meo. Có một chiếc giường gấp, một cây thánh giá gắn tượng chúa Giê-su chịu khổ nạn treoo trên tường – còn mới nhưng rẻ tiền, - một máy đọc điện tâm đồ và một bộ thiết bị truyền máu. Rùng cả mình. Khiếp quá. Bốn bức tường trắng, giường gấp và ống truyền máu thình lình gợi lại cho tôi hình ảnh năm lên sáu, tại bệnh viện ở San Cristobal…
Thôi quên đi.
Căn phòng cũng chật kín người. Taro và cô trợ lý Ashley của ông ta, người mà họ gọi là Ashley 2, chứ không phải Ashley Thieu như tôi tưởng lúc đầu, để phân biệt với các Ashley khác, đang ngồi dưới sàn nhà, giữa đống máy tính con, Marena và bác sĩ Lisuarte thì đứng nói chuyện dưới khung tò vò cạnh cửa sổ. Hitch, người quay phim – chúng tôi gọi ông ta như vậy vì trước đây ông ta từng là một đạo diễn điện ảnh đầy tham vọng, nom hơi giống Alfred Hitchcock (Đạo diễn phim người Mỹ gốc Anh) nhưng trẻ con và đậm nét Tây Ban Nha hơn – đang gài chiếc mi-crô lên nóc khung cửa ra vào. Tôi mang đống đồ ăn vặt của mình đi mời khắp phòng, nhưng chẳng ai muốn ăn hết. Tôi móc ra hộp nước quả cuối cùng còn sót lại. Nó có bộ phận làm lạnh tự động và dòng chữ “Mát lạnh!” bên trên. Lúc trước tôi cứ sợ rằng nó sẽ nhạt nhẽo và có vị na ná như tất cả các loại đồ uống thời thượng ngày nay, nhưng… không! Nó vẫn giữ được dư vị đắng rất đặc trưng, sự kết hợp ngon tuyệt của các chất este và an-đê-hit, y như thời cách đây mấy chục năm, trước khi các nhà pha chế trở nên khéo tay quá mức cần thiết. Bây giờ làm sao mua được thứ này ở Mỹ nữa? Bác sĩ L. nói chúng tôi nên vào việc thôi, và bây giờ là thời điểm thích hợp không kém bất cứ thời điểm nào khác.
Tôi trả lời ô-kê.
Ối giời ơi. Ghê quá.
Thôi nào, bình tĩnh. Vì chúa, hãy tỏ ra là người chững chạc. Tôi cởi giày và ngồi khoanh chân lên giường. Có lẽ nó vẫn kê đúng hướng như cái đệm rơm ngày xưa và cây thánh giá thì ở đúng chỗ mà bà sơ Soledad đã nằm khi bà ta chết trong phòng này. Dĩ nhiên, làm thế này có phần hơi quá. Chúng tôi nhất thiết phải làm việc này ở đúng chỗ này. Vị trí trong không gian thực của căn phòng này vào thời ấy đến nay đã dịch chuyển hàng triệu dặm, vì vậy, về mặt lý thuyết, tôi có thể ngồi ở Stake, ở phòng thí nghiệm tại Orlando hay bất cứ đâu cũng chẳng có gì ảnh hưởng. nhưng người ta cứ có cảm giác rằng độ sai lệch sẽ giảm bớt phần nào nếu tôi được ngồi ở đúng vị trí mà tôi phải đến ở quá khứ, cũng với nhưng bức tường gạch bùn trát vữa ấy, cũng cái sân trong ấy và tiếng ồn của thành phố ấy. Chỉ có điều, thời ấy, quanh đây, dê và cừu hiển nhiên là đông hơn người. Tôi sẽ quay về đúng thời điểm này trong ngày, nhưng không cùng thời điểm này trong năm.
- Anh không phiền vì tôi có mặt ở đây chứ, phải không? – Marena hỏi.
Tôi trả lời rằng không sao, và thêm rằng ngày xưa tôi cũng rất thích xem mẹ tôi vặt lông gà.
Tuy nhiên, tôi không nghĩ Marena để tai nghe tôi nói. Một tiếng rừ rừ đầy hăm dọa thình lình phát ra từ phía sau đầu tôi. Bác sĩ L. thậm chí không dùng đến kéo, bà ta chọc thẳng chiếc tông đơ vào mớ tóc rậm rì của tôi và làm nó như cái máy gặt lúa vậy, mà có khi nó được thiết kế dựa theo thứ ấy thật cũng nên.
- Chuyện với cha Tên-anh-là-gì đến đâu rồi?
- Lão ta đúng là một cái nhọt, - Marena đáp. – Chúng tôi đã đề nghị trả số tiền đủ để mua cả cái thành phố phải gió này, thế mà họ vẫn không muốn.
- À, họ ngại các vị có âm mưu trần tục gì đó với nơi này ấy mà.
- Thật thế, chúng tôi phải gọi cho sếp của lão ấy và nhận chu cấp thành lập cả một trường học đấy.
- Các vị nói chuyện với Chúa à?
- Không, không, với hồng y giáo chủ, cái lão mặt chim ấy, - cô ta nói. – Tôi cả rằng nếu là Chúa thì ông ấy chỉ lấy giá bằng một nửa thôi. Nó sẽ được đặt tên là “Trường Kỹ thuật hệ mười hai năm dành cho các nữ tu đồng trinh với giọt máu thiêng liêng được ban phước lành” hay cái của nợ gì đó.
- Thật phí tiền.
Bác sĩ Lisuarte đã cắt xong nửa đầu bên trái.
- Phải. Thế mà chúng tôi còn phải quẳng thêm vào hai hòm của để biếu xén nữa đấy.
Công cuộc xén tóc mất cả thảy hai phút. Tôi thấy oải cả người, không phải vì phải bắt đầu công việc với bộ dạng như Samson (Nhân vật trong cuốn kinh thánh cổ của người Do Thái, có sức mạnh thần kỳ nằm trong mái tóc) khi bị cắt trụi tóc hay vì tôi quá tin vào những điều mê tín của người da đỏ về mái tóc, dù là trong tiềm thức thôi, mà là vì chiếc mũ bằng vỏ trứng đà điểu của tôi lại đang treo ngoài kia.
- Xong, - Lisuarte nói. Tôi sờ tay lên trán và ngập ngừng xoa ngược lên khắp đầu. Tôi tưởng bàn tay tôi như tàu thăm dò mặt trăng Lunik 3. Khi lần đến phần xa nhất…
- Hê, anh để tóc thế này hợp đấy, - giọng của Michael Weiner. Tôi không nhìn thấy lão ta đi vào và đương nhiên lão không hề gõ cửa hay đánh tiếng gì hết. Tôi đáp cảm ơn. Lão vỗ vỗ vào lưng tôi. Phì, đồ con lừa. Sao ở đây lắm sự thân thiện thế không biết. Michael hỏi Taro xem mọi người chuẩn bị đến đâu rồi. Taro trả lời rằng họ đã sẵn sàng. Bác sĩ Lisuarte thì bảo chờ thêm năm phút nữa. Hình như đây là công việc quen thuộc hàng ngày đối với họ.
- Tốt rồi, nào… dượt lại một chút nhé? – Michael nói bằng cái giọng dẫn chương trình truyền hình của mình. – Bà xơ ngoan đạo đã nghoẻo vào giờ cầu kinh thứ ba, tức là khoảng chín giờ sáng, ngày 28 tháng 11 năm 1686.
Xem tiếp: Chương 10 - Part 03