Mật Mã Maya Chương 09 - Part 01
Chương trước: Chương 08 - Part 02
Chương 9
Ngày Đầu lâu thần chết 9, Trắng 19, 11.14.18.12.6, tức Thứ 6 ngày mùng 8 tháng 11 năm 1518, khi một đạo quân tự xưng là Quân đội của Đế quốc Tây Ban Nha Mới tiến theo con đường đất đắp cao rất rộng chạy thẳng về hướng đông vào thành Tenochtitlan, thì thủ phủ của người Aztec này vẫn còn là thành phố lớn thứ tư thế giới, một thành phố xây quanh những con kênh đào, chẳng khác gì thủy thành Venice thứ hai, sạch sẽ và gọn gàng như ô bàn cờ nằm giữa một khu hồ khi đó còn bao phủ sáu mươi dặm vuông ở miền trung Mexico. Báo cáo trinh sát cặn kẽ nhất của Bernal Diaz, viên sĩ quan trung úy của tướng Cortés, đã mô tả lại rằng: có những tòa lâu đài và kim tự tháp màu lam nhạt sáng bóng vươn lên từ mặt nước “nom như khung cảnh thần tiên đến từ một vương quốc trong cuốn Amadis, thậm chí một vài binh lính đã hỏi nhau rằng có phải họ đang nằm mơ chăng”.
Chuyện kể về Amadis xứ Gaul là một cuốn sách bắt chước theo kiểu truyền thuyết về vua Authur được viết năm 1508 bởi một tay viết xoàng xoàng tên là García Ordofiez de Montalvo, nhưng thực ra, nó cũng là một tác phẩm lãng mạn khá được ưa chuộng vào thời đó, có thể được ví ngang với sách của Tom Clancy ngày nay, được rất nhiều người tìm đọc trong một thời gian dài trước khi bị Cervantes nhại lại một lần nữa. Và việc cái kẻ ti tiện hám lợi kia liên tưởng đến những hình ảnh đó trong khi tiếp tay cho sự mở màn của một trong những tội ác diệt chủng lớn nhất trong lịch sử trái đất thật khiến người ta quá đỗi kinh tởm.
Nhưng phần tồi tệ nhất, sự khốn nạn thực sự lại nằm ở chỗ nó quả thực giống một thiên tiểu thuyết anh hùng lãng mạn. Cuộc Chinh phục, hay ít ra là giai đoạn đầu của nó, đã thực sự góp phần tạo nên những câu chuyện sử thi bi tráng được thần thánh hóa về lòng gan dạ. Người Tây Ban Nha đã vượt biển đến vùng đất lạ thường này, đã xâm nhập vào một đế quốc huy hoàng và đáng sợ, đã gặp gỡ một tộc người xa lạ, đã ngược đãi họ, đã chiến thắng áp đảo và trở nên giàu có một cách đồ sộ. Họ phải biến giấc mơ của mình thành hiện thực, và đó chính là vấn đề. Con người luôn có cách để hiện thực hóa ảo giác của họ, và như Irene Cara đã nói, hãy coi chừng khi có người tìm thấy niềm đam mê của mình và thực hiện nó. Song vào thời điểm ấy, khi tôi hiểu ra – tuy là mơ hồ thôi – việc họ sắp bắt tay vào, tôi cũng không nghĩ đến chuyện ấy. Tôi quay sang bước vào những vùng đất của Amadis, vào thế giới của trí tưởng tượng vô hạn, nơi thiên hà có thể xoay chuyển, nơi Lolita (Nhân vật nữ trong tác phẩm cùng tên của Vladimir Nabokov) thì thầm bên tai tôi, nơi Moby Dick (Con cá voi khổng lồ trong tác phẩm cùng tên của Herman Melville) nổi lên từ lòng biển sâu.
Marena không nói cho tôi hay chính xác họ đang dự định làm cái gì. Nhưng tôi đoán nó không phải một chuyến hành trình xuyên thời gian như trong những cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng kinh điểm, vì tôi hầu như đoan chắc chuyện đó không thể thực hiện được. Từ những câu nói ấp úng và quanh co của cô ta, có vẻ như cuộc hành trình chỉ là quan sát từ xa, không thể quá vất vả hay nguy hiểm được. Tôi hình dung ra cảnh mình ngồi thoải mái trong phòng thí nghiệm của Taro, thưởng thức những hình ảnh thực tại ảo bằng cả năm giác quan về bản sao của chính mình đang xem hai người đếm mặt trời Maya chơi một ván cờ Hiến tế hoàn chỉnh với chín viên đá.
Marena nói thực ra cô ta cũng có ý muốn để tôi vào thay vị trí của Sic trong cái mà họ gọi là dự án Count Chocular – hình như tất cả mọi hoạt động bí mật của Warren đều được đặt tên theo các loại ngũ cốc ăn sáng thì phải. Cô ta nói thậm chí đã đề cử tôi làm người dự bị. Nhưng ở Kerr Space người ta cho rằng Sic có nhiều ưu thế hơn tôi. Tôi hỏi lại rằng những ưu thế ấy là gì. Cô ta đáp một là tâm lý ổn định, hai nữa là anhta đã trải qua vài thử nghiệm mới. Cô ta không nói kỹ thêm về kế hoạch của họ.
Cô ta nói sẽ bàn chuyện này với Taro và tôi nên quay lại làm việc hoặc uống mấy viên Viodin và bình tĩnh lại. Tám giờ bốn mươi phút tối hôm ấy, chúng tôi nói chuyện với nhau qua điện thoại. Cô ta bảo đang ăn tối tại “khu nhà của Lindsay”, và rằng cô ta sẽ nói giúp tôi mấy lời. Tôi cảm ơn. Tôi uống Vicodin. Taro gọi điện lúc 11 giờ. Ông ta nói Marena đã nói với ông ta về chuyện của tôi và ông ta cũng đang suy nghĩ. Ông ta nói không thể cho tôi biết thêm chi tiết về dự án. Ông ta nói sẽ có một lời đề cử cho tôi.
Tôi thao thức trằn trọc cả đêm. Bảy giờ sáng hôm sau, tôi quay lại phòng thí nghiệm. Sic không có ở đó. Tôi cứ nằng nặc hỏi hắn ở đâu để thách chơi một ván. Asley nói họ - hoặc là Họ - thậm chí không muốn tôi nói chuyện với hắn nữa. Chắc Họ sợ tôi giết hắn. Cuối cùng tôi cũng quay lại làm việc, nhưng dĩ nhiên là không tài nào tập trung được.
Hôm sau, ngày 31, Marena thông báo họ sẽ để tôi thử sức, nếu qua được, tôi sẽ được xếp vào danh sách ứng viên. Chiều hôm đó, lũ đần ở Stake, giờ đã lên tới hơn hai mươi ngàn người còn khỏe mạnh, tập trung tại sân vận động Hyperbowl để nghe buổi nói chuyện nhà tiên tri đương nhiệm qua một màn hình lớn bằng sáu tầng nhà. Tiếp đến là một buổi hát nguyện hòa theo Lễ rước Hòm thánh. Tôi muốn bỏ đi lắm lắm, nhưng chẳng hiểu sao lại không đi được. Tôi cứ ngồi đó và kiểm tra tình hình ở nhà. Ở Indiantown, mọi việc không được ổn lắm. Có đến nửa số người tôi quen biết ở đó vẫn mất tăm. Thay vì đưa những người bị mất nhà cửa đến chỗ tạm trú mới ở các thành phố khác – cách làm này đã gây nhiều rắc rối phát sinh sau cơm bão Katrina – Cục Quản lý Tình huống Khẩn cấp Liên Bang đã xây dựng một trung tâm lánh nạn ngay tại Camp Blanding và hiện số người trú tại đó đã lên tới hơn hai triệu.
Trên blog, BitterOldExGreenBeretCracker vẫn tiếp tục tuyên truyền về việc Quốc gia Hồi giáo đứng sau vụ này bởi ngày thứ 4 đó từng được dự báo là ngày tái xuất của một tay bác học điên tên là Yakub mà tôi đoán là một kể chống lại chúa Giê-su. Hell Rot thì nói các hạt poloneum đã được phát tán bằng một hệ thống phun sương nào đó rất phức tạp, một tên phá hoại hay khủng bố đơn độc không thể chế tạo được, và rằng vụ tấn công hầu như chắc chắn do một chính phủ nào đó giật dây, có khi chính phủ của chính nước ta cũng nên. Có lẽ anh ta nói có phần hơi đúng, - tôi nghĩ. Đối với các âm mưu, vấn đề không nằm ở chỗ không có, mà là có quá nhiều. Nhưng đối với một âm mưu có thật đằng sau một tình huống X nào đấy lại có vài trăm ngàn giả thiết không thật, một vài trong số đó còn bắt nguồn từ những kẻ đồng lõa với chính âm mưu đó. Cũng có những giả thiết nửa thật nửa giả che đậy trên sự thật thực sự khiến hàng chục năm sau người ta vẫn không tài nào phát hiện được điều gì đã xảy ra. Nhưng có lẽ lần này…
Bài sát hạch bắt đầu vào ngày mùng hai. Tôi tưởng nó là thứ gì đó mà nếu tôi gắng sức, tôi sẽ làm được tốt hơn người khác. Nhưng té ra nó chẳng liên quan gì đến nỗ lực của tôi. Nghĩa là nó chỉ kiểm tra đúng tình trạng hiện thời của tôi thôi. Đầu tiên là một cuộc kiểm tra sức khỏe và tình trạng tim mạch kéo dài sáu tiếng đồng hồ. Kết luận là ngoài một căn bệnh dễ gây tử vong ra thì sức khỏe của tôi vẫn thuộc loại B+, được như vậy không phải tôi thích thế hay vì tôi không thích tập thể dục, mà vì nếu anh là bệnh nhân mắc chứng máu khó đông, thì anh chỉ có hai lựa chọn, hoặc giữ sức khỏe tốt, hoặc toi. Sau đó là những bài kiểm tra trí tuệ chung kéo dài mười bốn tiếng, bao gồm kiểm tra trí nhớ (dễ), các câu hỏi về dãy số và hình học không gian (dễ tương tự), kiểm tra ngôn ngữ (vẫn khá dễ), trắc nghiệm cảm xúc (tôi đoán là trượt, như mọi khi) và các trắc nghiệm kỹ năng giao tiếp, chẳng hạn như đoán xem một người trên đoạn băng video đang nói thật hay nói dối (hoàn toàn chẳng hiểu gì). Họ thử một cách đánh giá năng lực cảm xúc mới, cắm đủ thứ dây rợ vào người tôi và cho tôi xem những đoạn băng ghi hình lũ trẻ con ốm đau bệnh tật và lũ chó bị bắn thủng ruột, cứ như tôi là Alex DeLarge (Nhân vật mắc chứng tâm thần trong phim A Clockwork Orange) không bằng. Tiếp đến là những bài kiểm tra soạn riêng cho tôi. Theo tôi hiểu, họ đang cố tìm hiểu xem tôi quyết tâm làm việc này đến mức nào và động cơ của tôi là gì. Có giời biết được kết quả của bài kiểm tra ấy thế nào. Tôi cũng không biết mình nên thành thật đến mức nào về động cơ thực sự của mình, ý tôi là động cơ khác ngoài động cơ cứu trái đất khỏi ngày tận thế. Không phải là tôi không quan tâm đến ngày tận thế. Ý tôi là có ai lại không quan tâm cơ chứ? Nhưng đó không phải là động cơ cá nhân của tôi. Cũng không phải là Marena. Mặc dù dĩ nhiên tôi thấy cô ta khá hấp dẫn, và cảm giác thôi thúc muốn làm người hùng cũng là điều tự nhiên thôi. Phải không? Ừm, nếu cô ta muốn hẹn hò với một nhân vật nổi đình nổi đám, thì tôi sắp nổi đình nổi đám đây, không phải chỉ lắm tiền, mà là một người hùng hoàn hảo, làm được chuyện động trời, vì thế, tất cả những gì tôi làm trước kia, dù thối nát đến đâu, cũng không thành vấn đề nữa. Nhưng đó vẫn không phải động cơ chính của tôi.
Sự thật là, tôi đã có kế hoạch riêng của mình. Và tôi đã ấp ủ nó từ khi mới ra đời. Các bạn đã từng nghe về những cặp sinh đôi trong đó một đứa bé đã bị sảy từ khi còn trong bụng mẹ, và khi đứa còn lại lớn lên, mặc dù không biết nhưng vẫn luôn nói rằng họ cảm thấy thiêu thiếu ai đó. Tôi không có anh em sinh đôi bị sảy, nhưng tôi luôn có cái cảm giác ấy, cảm giác muốn tìm kiếm một thứ gì đó mà tôi đã mất. Ba phần năm những giấc mơ của tôi là cảnh tôi chạy quanh và tìm kiếm thứ gì đó, hay đúng hơn là nơi nào đó. Đó không phải một đồ vật nhỏ, mà là một nơi lẽ ra chỉ loanh quanh đâu đây thôi, nhưng chẳng bao giờ thấy. Và giờ đây, rốt cuộc tôi cũng đã nhắm được chính xác vào con quỷ nhỏ tai quái mà tôi đã dành cả cuộc đời buồn chán của mình để vồ chụp. Tôi muốn giành lại những cuốn sách của dân tộc tôi, tôi muốn dành lại nền văn minh đã bị chèn ép, bị vùi dập, bị xé nát, bị lãng quên tuy chưa chết hẳn của dân tộc tôi, và tôi muốn làm việc đó ngay bây giờ. Nghe ngớ ngẩn nhưng thật lòng. Thử tưởng tượng nếu anh là một đứa trẻ được đưa ra khỏi nơi nào đó như Alantis hay trại tập trung Warsaw, hay Krypton, hay Bosnia, hay Guatemala chẳng hạn, và trước khi gửi anh đi, cha mẹ cho anh vài vật làm tin, mấy mẩu gỗ ghép tranh cũ chẳng hạn. Chúng đã sởn hết các mép nhưng màu sắc của hình vẽ, chẳng biết là hình gì nữa bởi chúng chỉ là một phần của bức tranh lớn, thì vẫn tươi tắn và sắc nét. Và anh mang chúng theo suốt cả cuộc đời, mỗi lần nhìn vào, anh chỉ đoán được mơ hồ hình ảnh của bức tranh lớn mà trước kia chúng là một phần. Rồi anh nghe tin ai đó đang giữ cả, hay ít nhất là một phần bức tranh. Anh sẽ là gì? Chúa sẽ làm gì? Bất cứ ai sẽ làm gì?
Điều tôi sẽ làm là: tôi sẽ vượt qua Sic để họ phải chọn tôi, tôi sẽ bước vào cái gọi là Kerr Space đó. Tôi sẽ làm bất cứ điều gì cần làm. Tôi sẽ làm sao để nền căn minh xa xưa ngấm đầy bộ óc như miếng bọt biển vỏn vẹn 1534 xăng ti mét vuông của tôi và mang nó qua trở về.
17
Thứ 4, ngày mùng bốn, Marena gọi điện và dặn tôi chuẩn bị sẵn sàng để gặp sếp lớn vào sáng sớm ngày thứ 6. Đó là bức rào cuối cùng. Ai đó hẳn nghĩ rằng ông ta muốn ra quyết định nhận tôi, hoặc không, ngay lập tức cho khỏi tốn công sức, tiền của kiểm tra. Nhưng Lindsay Warren thuộc loại người sẵn sàng bỏ thì giờ ra để chờ đợi cơ hội cúi xuống nhặt một tờ séc một nghìn đô la ai đó đánh rơi. Đưa tôi ra giải quyết đầu tiên, trước tất cả các vấn đề khác chính là quy trình của họ, giống như cách mà trước đây người ta vẫn chuẩn bị bữa tối hằng ngày cho Louis XIV ở tất cả các lều săn, chỉ để đề phòng ông ta sẽ ghé qua.
Cho đến lúc này, Marena vẫn kín như bưng. Kế hoạch vẫn là để Sic đi. Tâm lý vững vàng và kỹ năng xã hội luôn chiến thắng sự thông minh mà. Sic lại có dáng chuẩn như người mẫu chụp ca-ta-lô cho hãng thời trang Patagonia nữa. Tuy nhiên tôi vẫn biết có ba người chưa quyết định bỏ phiếu cho tôi hay cho Sic, đó là Lindsay, và hai người nào đó được gọi là Snow và Erra Hatch. Bằng cách này hay cách khác, họ đã giấu kín kết quả. Tôi không biết Boyle và Michel Weiner bỏ phiếu cho ai. Cả Marena nữa. Mặc dù cô ta thích mình, - tôi nghĩ. Và Taro… ừ, Taro cho rằng… rồi, được rồi, nói thẳng vậy… ông ta biết mình hơi hâm. Nhưng ông ta có thể bỏ qua chuyện đó. Nhưng Boyle thì ghét mình. Cả cái lão Weiner chó chết kia cũng ghét mình. Vậy tình hình bây giờ có thể là hai chọi hai. Và lá phiếu của Lindsay dễ có trọng lượng gấp tám lần. Và vấn đề là – nếu có trẻ con ngoài kia, hãy để chúng nghe lời khôn ngoan có vẻ như xuẩn ngốc này – chưa bao giờ có chuyện người ta xét đơn thuần các phẩm chất của anh. Kể cả khi quyết định một vấn đề sống còn như ngày tận thế, mọi sự vẫn phụ thuộc vào việc người ta có thích anh hay không, anh có đẹp mã không, có tham gia hội kín nào ở New Haven không, hay tên anh có kết thúc bằng nguyên âm hay không. Đó là chuyện thường tình.
Tôi vật vã mất hai ngày liền. Sáng thứ 6, Laurence Boyle gặp Marena và tôi trong một căn phòng trần thấp, rộng và trống trải trong Khu Nghiên Cứu và Phát Triển Tạm Thời Số 4 của Stake, một khu nhà xây theo kiểu hầm boong-ke phía dưới sân vận động. Hắn hiện diện lúc bảy giờ sáu phút, với chiếc cổ áo cài kín mít khiến cái đầu nom như được vít chặt vào một chiếc ống và khoác áo vét đen. Chúng tôi uể oải lê qua một dãy khoang làm việc, trong mỗi khoang là một “ẩn sĩ” ngồi mải miết. Có vài người đang chơi bi lắc ở khu vực thư giãn giữa phòng. Họ dán mắt vào Marena như thể cô ta là nữ hoàng Amygdala (Nhân vật trong phim Cuộc chiến tranh giữa các vì sao).
- Những căn phòng này còn xuống thêm hai tầng nữa? – Boyle hỏi, hay nói cũng chẳng biết nữa. – Tất cả đều đang lập trình và thử nghiệm Hệ Thống Trận Địa Đối Không?
- Đó là một phương tiện hàng không không người lái phải không? – Marena hỏi nhưng không tỏ ra chút gì là quan tâm thực sự.
- Phải, - Boyle đáp. Hắn dẫn chúng tôi đến một cần thang máy khung kính lớn với một nhân viên bảo vệ mặc đồng phục xanh lá cây đứng sẵn bên trong.
- Bây giờ chúng ta đang đứng ngay dưới đường biên giới phía tây của sân vận động đa năng, - Boylle nói với tôi. Tôi miễn cưỡng gật đầu và liếc vào bản đồ định vị cá nhân:
North entrance: Cổng vào phía Bắc
Limit of upper seating level: Hàng ghế cao nhất trên khán đài
Seating level 14 – 52: Các hàng ghế từ 14 đến 52; Seating level 1 – 13:
Các hàng ghế từ 1 đến 13; Safe room: Phòng An toàn
VVIP SkyBox: Khoang Cực VIP
Great glass elevator: Thang máy chính; Warren Group Office: Văn
phòng tập đoàn Warren; Playing Field: Sân vận động
Exhibition Arcades: Khu triển lãm; South entrance: Cổng vào phía Nam
Main entrance: Cổng chính; Tree of Life: Cây biểu trưng
Hospitality count: Sảnh đón khách
Các chữ khác để nguyên.
- Xin chào, - một giọng nói nghe như của Julie Andrewa (Nữ diễn viên người Mỹ) cất lên. Tôi ngớ ngẩn nhìn xung quanh. – Xin quý khách vịn vào tay vịn an toàn trong lúc chúng ta đi lên. – Tôi nhận ra đó là tiếng thông báo tự động trong thang máy, đủ tự nhiên để lừa bất cứ ông thầy luyện giọng nào.
- Xin lỗi? – Marena yêu cầu tay bảo vệ làm cảnh trong thang máy. – Anh có nghĩ là… ờ… làm ơn tắt cái tiếng chết tiệt này đi giúp tôi được không? Cảm ơn. – Giọng cô ta nghe có phần u ám. Lúc ăn sáng ban nãy, hay nói theo cách khác là giữa những ngụm cà phê espresso, cô ta kể rằng vừa biết tin một người bạn tên là Yu Shih đã chết trong một đám cháy ở Vero Beach.
Thang máy bắt đầu đi lên. Bên ngoài khung kính tối om, và rồi ánh sáng tràn xuống quanh chúng tôi khi thang máy lên khỏi mặt đất, tiến vào cái hình nón ê-líp lộn ngược khổng lồ. Tôi thấy ấn tượng một cách bất đắc dĩ.
- Chúng ta đang tiến vào khán đài sân vận động Hyperbowl, - Julia lại lên tiếng. Một hiệu ứng xa gần kỳ lạ xuất hiện khi chiếc hộp trong suốt chở chúng tôi lừ dừ tiến đến gần đường mài vòm, các dãy ghế phía trên chúng tôi như vừa tiến lên trước vừa lùi ra xa. Tôi bất giác chộp lấy tay vịn. Phía bên kia sân cỏ, bốn vận động viên cao lừng lững trong bộ trang phục thể thao màu xanh lá cây đang vờn quanh một quả bóng đá phát sáng. Mũi tôi sượt qua cửa kính, để lại một vệt mờ nho nhỏ.
- Dưới kia chính là Mohammed Mâzandar đấy, - tay bảo vệ nói. Một lúc sau tôi mới đoán ra hắn nói với tôi.
- Ai kia? – Tôi hỏi.
- Cầu thủ tiền đạo ấy mà, - hắn nói như thể tôi mới lên hai.
Chắc tôi đã nhìn hắn bằng cặp mắt vô hồn.
- Cầu thủ bóng rổ ấy mà, - hắn nói, chỉ tay về phía một đám khổng lồ trong trang phục màu đỏ ở tít đằng xa.
- Ồ, - tôi đáp, - hay quá. Sao người ta cứ giả định một cách đương nhiên rằng bất cứ ai có nhiễm sắc thể Y trong người thì đều thích thể thao nhỉ? Tôi có bao giờ tiến về phía anh, một người hoàn toàn xa lạ, mà nói: “Này, anh bạn, anh có tin được không. Natalia Zhukova vừa giành giải EEC International đấy! Thật không thể tin được”?
Chắc tôi sẽ không cảm thấy thế này nếu như hồi còn đi học tôi được chơi thể thao, dù là một tẹo thôi, thay vì làm một thằng nhãi da đỏ người đầy vế bầm tím và lúc nào cũng cắm mặt vào máy tính…
- Chúng ta đang ở hàng ghế thấp nhất của khán đài, - Mary Poppins (Nhân vật trong bộ phim cùng tên do Julie Andrews thủ vai) nói.
- Xin lỗi, tôi đang cố tắt tiếng đi, - tay bảo vệ nói, cuống quýt lên với cái màn hình điều khiển. Trong một giây, tôi nghĩ tôi nhìn thấy trên màn hình hiện lên dòng chữ thông báo rằng một trong các chức năng của thang máy này là tự làm sạch.
- Sau khi hoàn tất, sân vận động Belize Hyperbowl sẽ có sức chứa hơn một trăm tám mươi nhăm ngàn người, trở thành khán đài thể thao lớn thứ ba thế giới.
Phải thế thôi, tôi nghĩ, ví thử là người khác xây dựng nên nó, thì thể nào họ cũng dè bỉu à xem, trừ khi nó chỉ là sân khấu dàn cảnh ột bộ phim.
- À này, - Marena nói, - anh biết là không được nói tục trước mặt trưởng lão Lindsay rồi nhỉ? Phải không?
- Ồ, dĩ nhiên, - tôi đáp. Và tôi sẽ tuân thủ nghiêm túc lời dặn dò này, nhất là khi nó được nói ra từ miệng một quý bà nói tục xoen xoét. – Cô biết đấy, tôi lớn lên giữa những người như thế mà. Ý tôi là giữa những người theo dòng Thánh ngày cuối.
- Ông ta là người thích rao giảng giáo lý, - Marena nói. – Nghe nói khi còn giữ chức phó giám mục, ông ta đã cải tạo được nhiều con chiên hơn bất kỳ ai từng làm được.
- Giỏi quá. – Tôi bắt đầu cảm thấy cuộc gặp gỡ này có tính chất quyết định hơn những gì cô ta đã tạo ấn tượng cho tôi.
- Chúng ta đang ở hàng ghế thứ mười bốn, - cái giọng nheo nhéo khó chịu lại vang lên khi chúng tôi mới đang ở hàng thứ mười ba.
- Chào mừng quý vị đến với Khoang Cực VIP.
Thang máy từ từ dừng lại. Im lặng, im lặng tiếp. Mãi rồi cuối cùng cũng có một tiếng chuông cứng đơ cung la giáng và vách tường phía bắc của chiếc hộp mở ra kèm theo tiếng rít rõ hay ho nhưng có lẽ là không cần thiết.
Xem tiếp: Chương 09 - Part 02