Tìm chuyện

Gõ vào bất kể từ gì bạn nhớ để tìm kiếm Ví dụ: Tên truyện, Tên tác giả, Tên nhân vật...
Để tìm kiếm chính xác hơn, Bạn có thể kết hợp nhiều từ khóa tìm kiếm và đưa vào trong ngoặc kép. Ví dụ: "Từ khóa 1" "Từ khóa 2"
Hệ thống hỗ trợ tìm kiếm với cả tiếng việt có dấu và không dấu

Mật Mã Maya Chương 34 - Part 03

Chương trước: Chương 34 - Part 02



Chương 34

Màu đỏ tươi. Được rồi.

Tôi chuyển quân. Còn bảy sọ. LEON chuyển quân. Còn sáu sọ. Tôi lưỡng lự. Còn có năm. LEON chuyển quân. Bốn sọ. Tôi chuẩn bị chuyển quân. Không, chờ đã. Tôi rụt lại. Mẹ kiếp. Đừng có nghĩ thật thà thế.

Hít một hơi đã.

Tôi liếc nhìn lên đồng hồ trên màn hình. Ba giờ chiều. Vậy là tôi đã chơi gần tám tiếng đồng hồ, trước đây tôi chưa từng chơi được lâu đến vậy. Nhưng mặt khác, tôi cũng mệt mỏi chưa từng thấy. Mất thăng bằng, suy nhịp tim và vất vả lắm mới nhớ ra được tên mình. Tôi bám lấy hai cạnh của cái bàn phím như thể nó có thể dùng làm phao nếu tôi ngã xuống nước. Cố mà tỉnh táo đi, Jed. Đến những nước cuối rồi.

Đâu đó, những hạt cuối cùng của Bụi Của Người Chèo Xuống Già phát huy tác dụng ngay trước khi các khớp thần kinh bị phê quá liều của tôi suy sụp. Tôi vẫn còn đủ sức phân vân không biết cái vệt màu khi có phải manh mối dẫn điều gì đó không. Một hình thù, một con vật, thứ gì đó liên quan đến màu đỏ ấy, thứ gì dó tôi từng nhìn thấy, một con số, hay thậm chí một từ, một cụm từ?

Tôi chuyển quân. LEON chuyển quân. Còn ba sọ. Còn hai sọ.

Một từ chăng? Không, là hai từ. hai từ ngắn. Từ gì đó tôi từng nhìn thấy, từ gì đó không có nhiều nghĩa lắm. Nó là gì nhỉ, là gì nhỉ…

Tôi chuyển quân.

Một sọ…

Hell Rot à?

69

Trên cửa sổ màn hình thứ nhất, một khối phơ-rông-lạnh (Một hình thái gây mưa.) trải rộng tám trăm dặm, màu vàng nóng trên nền xanh lam sẫm của vịnh Alaska, di chuyển về hướng tây với tốc độ mười hai dặm một giờ. Theo khung chú thích kèm theo, khối không khí sẽ đổ bộ vào bờ biển British Columbia vào lúc 5h30 phút sáng theo giờ chuẩn Thái Bình Dương, tức là sau năm mươi nhăm phút nữa. Mặt trời sẽ mọc vào lúc 5 giờ 22 phút, tức là hai mươi mốt phút sau giờ ấn định của cuộc tấn công. Trên cửa sổ màn hình thứ hai là một hình ảnh chưa được làm tăng độ nét từ vệ tinh do thám KH-13 Ikon, tôi nhìn thấy eo biển George tối sẫm bên tay trái, những đốm đèn đường màu da cam của Vancouver với vệt tối màu của con sông chảy qua, tiếp đến, bên tay phải là cái đuôi dài sáng trắng ánh đèn của đường cao tốc xuyên Canada chạy về phía đông theo hình chữ U rộng lòng, men theo bờ sông Fraser. Ở điểm tận cùng của chiếc đuôi bên góc phải màn hình là một vệt sáng nhòe nhòe đánh dấu thị trấn Chilliwack. Khung chú thích liệt kê vài thông tin cơ bản: rằng Vancouver là trung tâm công nghệ sinh học lớn thứ hai ở lục địa Bắc Mỹ và phát triển nhanh nhất Canada, rằng nó được nhất trí xếp vào hàng bốn thành phố hàng đầu thế giới về mức sống, rằng chỉ số IQ trung bình của người dân khá cao, khoảng 98, và – có lẽ hơi mâu thuẫn nhưng là điều chúng tôi quan tâm – nó có tỉ lệ tự sát trên đầu người cao nhất trong số các thành phố lớn ở Tây Bán Cầu.

Cửa sổ màn hình thứ ba cho thấy hình ảnh một khu hai dặm vuông của thị trấn Chilliwack. Nhìn nó chẳng có vẻ gì đáng sợ đến thế. Có hai khu tách biệt, một chạy dọc theo hướng bắc – nam, một nằm ở cung phần tư tây bắc, chéo hai mươi độ theo chiều kim đồng hồ. Về phía nam, các con phố dài hơn và uốn lượn nhiều hơn, cho biết chúng là nơi có những khu dân cư mới và đẹp hơn. Mạn đông là khu dân cư cũ, cũng có những ngôi nhà to nhưng các khu phố nhỏ hơn và sát nhau hơn, hẹp theo chiều bắc – nam rộng theo chiều đông – tây. Đại lộ Marguerite chạy từ đông sang tây, cắt ngang thị trấn và số nhà 820 nằm chính giữa. Khung chú thích ghi rằng Chilliwack là một cộng đồng hơn bảy mươi tám ngàn dân, rằng tuy kinh tế chủ đạo của thành phố là nông nghiệp nhưng rất nhiều người vào làm việc trong thành phố lớn cách đó sáu mươi dặm về phía tây, chịu đựng những chặng đường dài dằng dặc như một sự thỏa hiệp với lối sống, rằng thu nhập trung bình của dân thị trấn là bốn mươi tám ngàn đô la Canada, rằng tỉ lệ sinh hàng năm là 0,98% và tỉ lệ chết là 0,7%. Chẳng mấy chốc sẽ là 0 và 100% - tôi nghĩ.

- Sao họ không đón lõng khi hắn ra khỏi nhà nhỉ? – Asley thì thầm vào tai tôi. Cô ta vừa bước vào.

- Hắn không ra khỏi nhà bốn ngày nay rồi, - tôi đáp.

- À.

- Dù sao họ cũng cho rằng hắn cất giữ Con Dê ở đâu đó trong nhà. Đó là lý do vì sao họ chờ đến hôm nay.

Cô ta lại “à” một lần nữa. Cô ta ngồi xuống cạnh tôi và nhìn lên màn hình trên tường. Chúng tôi đang tập trung trong một phòng hội thảo lớn tại trung tâm hội nghị tạm thời gần Hyperbowl – “chúng tôi” ở đây bao gồm Taro, Lisuarte, Larry Boyle, Tony Sic, các sinh viên thực tập của Taoro, Michael Weiner (ngồi lù lù một đống trên ghế bên tay trái tôi), tôi và gần như toàn bộ những ai liên quan đến dự án Parcheesi, trừ Marena, người vì lý do nào đó mà tôi không hiểu, đang theo dõi từ xa, tại nhà riêng ở Colorado. Không khí có vẻ thoải mái đến mức tôi gần như tưởng tượng rằng chúng tôi chỉ là một nhóm sinh viên tự động kéo nhau vào phòng giải trí để theo dõi bầu cử qua truyền hình hoặc xem bộ phim Grinch đánh cắp Giáng Sinh như thế nào. Nhưng không phải đâu, - tôi tự nhắc mình, - không phải đâu đấy.

- Chiếc xe téc thứ hai rồi đấy, - Laurence Boyle nói. Hắn chỉ vào cửa sổ màn hình tiếp theo, màn hình thứ tư, với một chấm laser màu xanh nước biển. Nó đang hiển thị hình ảnh trực tiếp thu từ một vệ tinh ghi hình trong bóng tối; hình ảnh tập trung vào bốn khu nhà, chính giữa là nhà của gia đình Czerwick. Có thể trông thấy rõ căn nhà có hai đầu hồi, một gara hai xe ô tô với cái mái bằng úp chụp lên trên và một cái bàn khá to trong khoảng sân sau dài và hẹp. Mái nhà rất tiếc lại được làm bằng hợp kim mạ đồng nên tia hồng ngoại khó lòng lấy được hình ảnh từ trên cao. Chiếc xe téc mà Boyle vừa chỉ nhìn giống một lon Red Bull, không bật đèn pha, lừ lừ tiến vào, đỗ sau chiếc thứ nhất trên phố Emerald, cách đại lộ Marguerite hai tòa nhà về phía nam. Tôi đứng lên, ngó qua đầu Tony Sic để nhìn cửa sổ màn hình thứ năm. Nó có hình ảnh nét thu từ một máy quay đặt trên tháp truyền hình cách trung tâm năm khu nhà, bao quát được toàn bộ 800 khu nhà từ một góc nghiêng 45 độ. Qua góc quay này, có thể thấy căn nhà có áng chừng bốn phòng ngủ, vừa đủ kiểu cách để người ta nhận ra là nhà của người da trắng. Thềm trước cửa có bốn bậc dẫn lên một hàng hiên có mái che, khoảng trống này sẽ làm đội phản ứng nhanh mất chừng một giây gì đó. Nhưng ngôi nhà không lớn lắm – khu này được xây dựng từ năm 1988, ngay trước thời kỳ hoàng kim của McMansion (Tên dùng để chỉ những căn nhà lớn của tầng lớp trung lưu) – và tay đội trưởng nói họ có thể kiểm soát toàn bộ trong vòng không đến tám giây. Các căn nhà ở cả hai bên đường đều na ná như căn nhà này, chỉ khác nhau tí tẹo. Một vài sân nhà có trồng mấy cây phong đang độ tráng niên. Chúng vẫn chưa ra lá. Mọi thứ nom có vẻ bình thường. Thậm chí có thể coi là định nghĩa của sự bình thường. Lúc trước thì mình có thể khẳng định như vậy, - tôi nghĩ. Từ vài chục năm nay, ai cũng biết rằng các khu ven đô là một ý tưởng tồi, nhưng người ta vẫn cứ xây dựng chúng rồi bây giờ lại thắc mắc không biết những điều tệ hại đầu từ đâu tới.

Ông bố và bà mẹ - ở tuổi ba mươi sáu, Madison Czerwick vẫn sống cùng cha mẹ - hầu như chắc chắn đang ngủ ở phòng ngủ lớn ở tầng hai. Ai đó, có thể là em trai hắn, ngủ ở phòng phía sau. Madison – chúng ta sẽ gọi tên hắn thay vì họ - nhiều khả năng đang ngồi trong phòng mình. Tất cả các màn hình theo dõi khác đều cho thấy cái mà người ta gọi là “khung cảnh phù hợp với giấc ngủ đêm”. Nghĩa là không hề có ti vi, đèn bàn ở tầng một và tầng hai. Hơn một giờ đồng hồ vừa qua chưa thấy chuyển động nào của con chuột máy tính. Điện thoại, máy tính bỏ túi và các thiết bị truy cập mạng khác đều tắt. Biểu đồ đo điện chạy không dứt khoát, nghĩa là có thứ máy móc gì đó, tuy không lớn, đang chạy dưới tầng hầm. Có thể tất cả đều đang nằm ấm cúng trên giường mình. Với hình ảnh của tội ác diệt chủng đang nhảy múa trong đầu.

- Họ đang bàn chuyện lùi lại năm phút, - tiếng Ana thông báo qua hệ thống loa chung, có thể nghe thấy cả các giọng nói khác xì xầm phía sau, - để chuẩn bị cho xong các đường ống.

- Cảm ơn cô, Vergara, - Boyle đáp. Cô á? Vào lúc khác, tôi và tất cả những người khác có lẽ đã phì cười. Nhưng hôm nay thì không. Ana – người té ra ít giống lính tráng, mà giống vận động viên nhà nghề hơn tôi nghĩ – là một trong khoảng ba mươi hành khách ngồi trong toa moóc của một chiếc xe nhà di động được cải tạo khá lịch sự, đỗ cách số nhà 820 chừng mười khu nhà.

- Đây, họ đây rồi, - Ana nói. Con trỏ của cô ta xuất hiện trên màn hình số 5, khoanh tròn quanh một nhóm bốn người đang nối những cái ống dài màu trắng vào sau hai chiếc xe téc màu vàng. Họ xếp những cái ống thành hai đường thẳng thớm dẫn đến nơi cách nhà 820 năm mươi feet, mỗi đầu để chừa vài trăm feet. Ngừng lại một lát. Ai đó vặn van, hai đường ống căng lên, đến chỗ để chừa thì dừng lại, tôi đoán ở đó có một cái van khác để chặn. Đã thấy hơi nước tụ dày đặc quanh hai đường ống. Chúng chứa đầy nitơ lỏng mà chúng tôi hy vọng có thể khống chế Con Dê.

Trong ngày điều tra đầu tiên, các thám tử phát hiện ra Madison đã từng bị “tước quyền” tiếp xúc với một quần thể Brucella abortus được “gây với mục đích đặc biệt”. Đến cuối ngày thứ hai, họ khẳng định rằng các hoạt động trên mạng internet của hắn, nhất là các bản đồ gen mà hắn tải về, cho thấy hắn đang tích cực tìm hiểu cấu trúc AND của chúng. Brucella (Vi khuẩn này không lây từ người sang người) là một loại vi khuẩn lâu đời và đáng tin cậy, anh chỉ có thể bị nhiễm khi đỡ đẻ chO một con trâu nước hay uống sữa dê chưa tiệt trùng chẳng hạn. Lâu nay, nó vẫn được gọi là bệnh sốt Malta, “sốt dê”, sảy thai nhiễm khuẩn (Ở gia súc), bệnh dịch Bang và hàng trăm cái tên khác. Chúng tôi thì chỉ gọi đơn giản là Con Dê. So với loại vi rút được phát tán ở Disney World, các triệu chứng do vi khuẩn này gây ra chẳng là gì: bất thần đổ mồ hôi có mùi như rạ ẩm, đau cơ, choáng váng và tử vong, dĩ nhiên. Cũng khá ghê rợn, nhất là phần đổ mồ hôi. Tốt nhất là nhớ mang theo một lọ khử mùi hữu cơ trên đường xuống âm ti.

Tai tiếng lớn nhất của Con Dê là nó là loài khuẩn hình que đầu tiên được vũ khí hóa bởi tay chính phủ Mỹ. Năm 1953, họ đã thử nghiệm nó trên động vật, dưới dạng bom chùm tương tự như với khuẩn than sau này. Lực lượng không quân đã chọn sử dụng nó vì không như phần lớn các khuẩn hình que khác, nó có thể tồn tại nhiều giờ trong quá trình chuyên chở bằng máy bay, và thú vị hơn, nó có thể xâm nhập qua da người mà không cần có vết sứt sẹo nào, vì thế, khi chuyển chúng từ ống nghiệm này sang ống nghiệm khác, dù anh có đeo mặt nạ chống hơi độc NBC mà để hở một mảng da thì anh cũng sẽ thành mẩu bánh nướng.

Tuy vậy, đến những năm 1970, các chủng còn lại của loài vi khuẩn này đã bị cấm sử dụng và được lưu trữ trong tủ băng tại kho quân sự Pine Bluff Arsenal ở bang Arkansas. Đến những năm 1980, chúng được cho là đã bị hủy. Nhưng từ đó trở đi, có kẻ nào đó vẫn đang táy máy với loại vi khuẩn này, hoặc để phát triển các phương thức chống lại nó, hoặc để bán, hoặc có thể cả hai.

rong vòng mười sáu tháng kể từ khi mất việc ở chi nhánh Vancouver của CellCraft, Madison đã phát triển Con Dê lên mức đáng kể. Chủng Czerwick – theo dự đoán của Trung tâm Phòng chống và Kiểm soát Dịch bệnh qua những những gì họ tìm được trong ổ cứng máy tính của Madison – hiện có các đặc tính tức thời phổ biến như sinh sản nhanh, kháng chất diệt trùng, không gây triệu chứng ngay sau khi nhiễm và hoạt động như một quả bom hẹn giờ chính xác đến từng ly. Nhưng đặc điểm cải tiến đang chú ý nhất là khả năng truyền nhiễm linh hoạt. Các chủng Brucellis cổ điển có thể lây truyền từ một vài loài động vật sang người và có thể là từ người sang động vật. Nhưng đa số các loài động vật hoàn toàn miễn nhiễm, hoặc do tuổi thơ hoặc phương thức sống mà không thích hợp để làm trung gian truyền bệnh cho người.

Công trình của Madison đã đào rộng thêm cái hố của các trung gian truyền bệnh tiềm năng một cách đáng kể. Chủng vi khuẩn mới biến đổi nhanh hơn, theo hướng dễ thích nghi hơn bất cứ loài khuẩn hình que tự nhiên nào khác. Cứ như thể chúng tự biến đổi được AND của chính mình để thích ứng với cấu trúc prô-tê-in của hàng trăm họ động vật khác nhau cứ không chỉ loài linh trưởng. B, czerwichi có thể nhảy qua rào cản của sự khác biệt giữa các loài hết lần này đến lần khác, nhảy qua nhảy lại, khắp sinh quyển. Thông thường, bệnh dịch sẽ ít gây tử vong hơn khi chúng lan rộng – vì nếu không sẽ chẳng còn động vật trung gian nào để truyền bệnh – nhưng vì có quá nhiều loài có thể làm trung gian truyền Con Dê nên cũng còn chán mới đến được cái ngưỡng ít gây tử vong ấy. Theo một vài dự đoán của Trung tâm Phòng chống và Kiểm soát Dịch bệnh, Con Dê có thể giết sạch các loài thuộc họ linh trưởng và toàn bộ hoặc phần lớn các loài có vú khác. Điều đó cho anh thấy con chồn nhỏ Czerwick mà tức giận thì sẽ như thế nào.

Giống như các vị tổ tiên của mình, Con Dê có thể bị tiêu diệt bằng kháng sinh trị nhiễm trùng tiêm thẳng vào cơ. Nhưng với việc phát bệnh hàng loạt vào đúng một thời điểm ấn định trước, sẽ chẳng có đủ thuốc kháng sinh cho tất cả, cho dù còn đủ người để đi phân phát chúng. Và đương nhiên, Trung tâm Phòng chống và Kiểm soát Dịch bệnh đã bắt tay vào nghiên cứu vắc-xin, nhưng phải mất thêm một thời gian nữa mới hoàn tất và hơn một năm nữa mới có thể sản xuất được thuốc hàng loạt. Các dự đoán của Trung tâm Phòng chống và Kiểm soát Dịch bệnh – hay chí ít cũng là các dự đoán mà chúng tôi được biết – chỉ ra rằng chỉ một số người sinh sống ở các vùng gần cực có thể sống sót. Nhưng với khả năng chịu lạnh

Loading...

Xem tiếp: Chương 35 - Part 01

Loading...

Bạn đã đọc thử chưa?

Tây Uyển Mị Ảnh

Thể loại: Sắc Hiệp, Đô Thị

Số chương: 41


Cứu Thục

Thể loại: Đam Mỹ

Số chương: 59



Tiếu Xuân Phong - Lệ Mộ Huyết Lan

Thể loại: Đam Mỹ

Số chương: 29


A Nông

Thể loại: Ngôn Tình

Số chương: 34