Mật Mã Maya Chương 27 - Part 03
Chương trước: Chương 27 - Part 02
- Gió 9, ý nghĩ 10, k’atun mười sáu, - bà ta thông báo. Đó là ngày mùng 4 tháng 2, năm 1525 Công nguyên. Vùng hồ cạn khô thành bùn và tan biến đi theo những cơn bão cát.
- Hắn tiêu diệt gần như toàn bộ chúng ta, - Koh nói.
- Ai cơ? – tôi hỏi
Bà ta miêu tả một gã khổng lồ với bộ râu đỏ hoe vàng.
Tôi nói tôi biết hắn là ai.
- Là ai? – bà ta ra hiệu hỏi.
- Pedro de Alvarado.
53
Koh nhắc lại cái tên. Tôi thấy rùng cả mình khi nghe thấy nó ở đây, vào lúc này, qua giọng nói của bà ta.
- Lúc này, chúng ta đã thành nô lệ, - bà ta nói. Tôi tiếp tục nhìn xuống bàn cờ. Bây giờ, nó to lớn chẳng khác nào toàn bộ Tây Bán Cầu, dân cư đi lại khắp các lục địa như những hạt xoàn lăn trên cái dĩa phẳng. Bà ta mô tả các thành phố to phình lên gấp đôi chỉ sau vài mùa hòa bình, hệt như nấm đất, và hai cái rễ đen với những con sâu khổng lồ, ướt rượt, trườn bên trên. Tôi nói cho bà ta biết tên của thứ mà bà ta vừa liên tưởng ra, và bà ta nhắc lại từ “đường sắt”. Bà ta chuyển từ vị trí của ngày 24 tháng 12 năm 1917 sang năm 1918, đến chuỗi ngày mà những cơn động đất tàn phá Ciudad Guatemala. Bà ta tả rằng những cái rễ sinh sôi rất nhiều, nhú lên, vươn dài và rỉ ra nhựa đường. Lũ rận rệp màu đen bò trên đó, hút máu của nữ thần Cóc Đất và cây cối sẽ rung chuyển dưới hơi thở của chúng. Sau k’atun thứ chín của b’ak’tun cuối cùng, lũ rận rệp hôi thối đó sẽ sinh sôi thành từng đàn khổng lồ, được tráng men đỏ, xanh lơ và vàng, một vài con mọc cả cánh. Tôi giải thích rằng theo tôi, bà ta đang nhìn thấy đường, xe ô tô và máy bay. Bà ta tả tiếp những khối đá thạch anh “mọc qua đêm và nôn những con ruồi trắng vào một cái bát nứt màu lục lam”. Tôi không chắc bà ta nói thế nghĩa là sao. Bà ta đặt hòn ngọc bích của mình xuống ngày Khỉ rú 11, Trắng 4, unial thứ năm, tun thứ nhất, k’atun thứ mười tám của b’ak’tun thứ mười ba, b’ak’tun cuối cùng.
- Đó là ngày lễ đặt tên của người, bà ta nói. Tôi gật đầu ra hiệu “đúng”.
Bà ta di chuyển nó đến ngày mùng 3 tháng 2 năm 1976 – ngày xảy ra cơn động đất lớn cuối cùng của Guate City – và tiếp tục đi sâu hơn vào b’ak’tun thứ mười ba.
- Ngày Chuyển động 11, - Koh nói, - một con rắn “ống xì đồng” với miệng và hậu môn kề nhau sẽ nôn bụi cát vào lửa của Thần Số Không, và bụi cát đó sẽ nóng chảy thành những lưỡi dao thủy tinh.
Ngày đó tương ứng với ngày mùng 2 tháng 6 năm 2009, ngày xảy ra vụ nổ máy gia tốc hạt ở Huajapan de Léon. Tôi định kể qua cho Koh về sự việc này, nhưng bà ta đã đi tiếp, đưa viên ngọc mắt mèo đến ngày Lưỡi dao 6, Xương vàng 6.
- Chúng đánh lộn nhau ở đây, - bà ta nói, - tại một “ thành phố trò chơi” ở đồng bằng san hô phía bắc.
- Là Disney World, - tôi nói.
-Chính xác thì điều gì đã xảy ra vào mặt trời đó?
Tôi cố mô tả lại ngày đó chính xác hết mức có thể.
Koh đi tiếp. Chúng tôi đã đến nơi tận cùng của thế giới ở rìa phía tây của bàn cờ, tại một ô tương ứng ngày Chúa tể 4, Xương vàng 3, tức 21 tháng 12 năm 2012, ngày cuối cùng của chu trình thời gian.
-Một ahau giấu mặt sẽ khiến người của ông ta quay ra chống lại chính ông ta, - Koh nói, - ông ta có cái sọ méo mó.
Tôi gật đầu đồng ý “vâng”, nhưng thông tin đó chẳng có gì là nhiều nhặn cho lắm.
- Không, chờ đã, - bà ta nói, - ông ta không phải ahau, ông ta chỉ sử dụng tiếng nói của ahau thôi. Tên ông ta là Hoa Lăng Tiêu.
Ối giời, - tôi kêu thầm trong bụng. Thông tin này thì có vẻ khá cụ thể, theo cách riêng của nó. Có điều tôi chưa từng nghe đến thứ gì được đặt theo tên Hoa Lăng Tiêu.
Hừm.
Từ tiếng Ix mà bà ta dùng là t’aal chaconib, nôm na là “hoa sô-cô-la chim ruồi”. Và hiển nhiên đó là “hoa lăng tiêu”, Campsis radicans. Nhưng vấn đề là từ này hay được dùng làm tính từ nhiều hơn, giống như “màu hồng cá hồi” vậy. Tức là người ta coi hoa lăng tiêu là màu đỏ. Nhưng những loài lăng tiêu dại mà chúng tôi có lại có màu hồng, hoặc hồng cá hồi. Vì vậy, chắc ý bà ta là “màu đỏ nhạt”.
- Người, ở trên tôi, có thể cho tôi biết ông ta ở đâu không? – tôi hỏi. Nhưng bà ta đã đi tiếp, đưa quân chạy đi xa hơn ngày đó, vào thời gian “không tên”. Bực thật. Tôi lại liếc nhìn bà ta. Những người chơi cờ Hiến tế phải học cách che giấu sự mệt mỏi tinh thần, nhưng đồng thời họ cũng học được cách đánh hơi thấy điều đó ở kẻ khác. Vì vậy, mặc dù Koh không có biểu hiện gì ngoài một tẹo nhức mỏi vì phải tập trung mắt khá lâu, thêm một hay hai mạch máu hơi nổi lên trên nửa trắng của khuôn mặt, nhưng tôi vẫn có ấn tượng rằng bà ta sắp gục xuống. Một giọt mồ hôi lăn xuống từ chân tóc được xoa dầu của bà ta. Trên bàn cờ, và hình như quanh chúng tôi nữa, vô số hình thù lộn xộn quay cuồng và gào rú với tiếng ồn như tiếng một đàn súc vật thuộc loài có vú không lồ trong hang đá lớn. Phía trước chúng tôi, có thứ gì đó nom như một rìa núi, và xa hơn nữa là một thứ có thể gọi là vùng nằm ngoài tầm mắt, tức là 80% không gian quanh đầu mà anh không những không nhìn thấy, mà còn không hình dung được trông nó sẽ như thế nào. Chẳng hạn, khi anh cố nhướng mắt nhìn lên khoảng không phía trên giới hạn cao nhất của tầm nhìn phía trên mũi mình, anh sẽ thấy một dải mờ màu nâu, nhưng xa hơn nữa lại không phải một màn đen kịt mà là sự hư vô mà bộ não của anh không thể hình dung ra được ở đó có gì.
-Và đây là cách núi rồi, - Koh nói. Nghĩa là không còn gì nữa.
Im lặng.
Hừ, trở ngại đây, - tôi nghĩ. Tôi nén một cái ợ. Tôi thấy buồn nôn. Cô gái lùn lạch bạch đi tới, dọn những viên đá lớn nhỏ đi. Sự im lặng kéo dài đằng đẵng trong lúc Koh nhìn xuống bàn cờ trống không. Hai mắt tôi mỏi đến mức nhìn cái gì cũng hơi xanh xanh. Khi Koh quay đi không nhìn nữa, cô gái lùn lau sạch bàn cờ bằng nước b;alche’, muối và nước lã, đập tay năm lần để báo cho uay của bàn cờ biết rằng chúng tôi đã chơi xong, đậy nắp lò lại và rải cánh hoa phong lữ lên đó. Cô ta lấy từ một trong mấy chiếc bình ra một mảnh vải ướt và dập tắt các mẩu nến bấc.
Tôi nheo mắt. Trong phòng vẫn còn ánh sáng. Đó chính là ánh sáng xanh mà lúc trước tôi tưởng là do mắt tôi mỏi. Nó vẫn lờ mờ nhưng đủ sáng để tôi nhận ra thứ bóng như sáp phủ khắp tường, khắp trần nhà và khắp các bức màn che, thứ có màu đen dưới ánh lửa lúc nãy không phải giấy, không phải lá cây, cũng không phải lông chim. Đó là một lượt cánh màu xanh biếc của loài bướm đổi màu. Chúng được cắt tỉa tỉ mẩn từ phần giữa cánh thành những mẩu hình tròn bé xíu rồi đính lên lớp lót bằng vải bạt. Hàng chục ngàn phiến tròn óng ánh biếc như da trời rung rinh trong luồng gió mà không có chúng thì chẳng ai nhận thấy. Tôi nghe nói ở miền tây bắc này, bướm đổi màu là way của các chiến binh đã bỏ mạng và người ta chỉ có thể thu lượm chúng sau khi chúng chết một cách tự nhiên. Đôi khi, những người thu lượm bướm phải theo dõi những con hấp hối đến vài ngày trời. Thế thì mất bao lâu mới được chỗ này? – tôi tự hỏi, người ta đã tiêu tốn bao nhiêu giờ lao động, bằng bao nhiêu đời người, cho căn phòng này? Ánh sáng lan rộng ra. Chúng rơi xuống như tuyết từ ô cửa trần, chậm đến mức tôi nghĩ mình trông thấy rõ từng hạt ánh sáng. Màu xanh đằm xuống thành một ánh biếc long lánh kỳ ảo, ánh biếc không hẳn là màu sắc mà đến từ hàng tỉ chiếc vây góc cạnh và biến mất dưới một giọt nước, và nó còn đằm sâu hơn thế nữa, tưởng như chúng tôi đang chìm xuống nước biển nhiệt đới, tinh khiết đến độ tôi cảm tưởng như đây mới là lần đầu tiên được nhìn thấy màu xanh thực sự.
Cô gái lùn dừng việc đang làm và hấp tấp bỏ ra ngoài như thể vừa nhận được hiệu lệnh bằng ngoại cảm.
Chắc chỉ thế thôi, - tôi nghĩ. Tôi hít một hơi và chuẩn bị bài cảm ơn như thông lệ nhưng Koh ngăn tôi lại bằng một cử chỉ “cứ ở yên đó chờ”.
Bà ta nhắm mắt lại. Đây có thể coi là cử chỉ thân mật nhất của bà ta kể từ lúc tôi đến.
Chúng tôi ngồi yên.
Ta có nên coi đây là một thất bại không nhỉ? – tôi ngẫm nghĩ, - bà ta đã đưa mình đến đó, mình đoán rằng… nhưng như thế cũng không đủ để lần ra ai đó… phải vậy không? Mình không…
- Ta cần chơi lại ván đó, - Koh nói,- với một liều đầy đủ Bụi Của Muối Mặn Già và Bụi Của Người Chèo Xuồng Già.
Tôi không biết nói gì nên cứ ngậm miệng, một điều rất hiếm khi tôi làm.
Hừm, vậy là, xem ra bà ta cũng coi đây là một thất bại. Song chí ít bà ta cũng có sự tự tin. Nó hơi giống cái cách mà Taro nói chúng tôi cần nỗ lực thêm 1020 lần nữa để khoanh vùng được tên doomster. Chúng tôi không bao giờ làm được điều đó, hiển nhiên, bởi hành tinh này không có nhiều sức máy tính đến thế, nhưng ít ra ông ta cũng biết điều đó là không thể.
Tôi loáng thoáng nghe thấy tiếng động và ngẩng lên. Chin Cách Cụt đã quay lại, thì thầm gì đó vào bên tai trắng của Koh.
Tôi ngồi yên.
Tiếng thì thào mãi không dứt. Cảm giác về thời gian của tôi vẫn chưa trở lại bình thường, nhưng tôi chắc chắn câu chuyện đó kéo dài hơn mười phút. Koh ra hiệu bằng tay để hỏi lại vài điều gì đó nhưng tôi không hiểu là gì. Bà ta nhìn tôi với thái độ làm tôi hơi lo. Cuối cùng, cô gái lùn cũng đi ra, Koh ngồi lại tư thế trang trọng và nhìn tôi với ánh mắt khiến tôi phải cúi xuống nhìn chỗ lúc trước là bàn cờ.
Xem tiếp: Chương 28 - Part 01