Mật Mã Maya Chương 25 - Part 01
Chương trước: Chương 24 - Part 02
Chương 25
Cá sấu 12, Hun Xoc và tôi gọi Bướm Đêm 3 đến, đưa hắn và vệ sĩ của hắn tới phòng kho, chính căn phòng có những hũ muối lần trước, để nghe đầu đuôi câu chuyện. Với mọi nỗi khó nhọc của việc đi lại trong thành phố, chắc hắn đã phải chạy ba dặm đi và ba dặm về, bây giờ còn ướt đầm mồ hôi và cố lắm mới không thở hổn hển, Ánh nắng chiếu xiên qua ô cửa trên trần với một góc rất hẹp. Khoảng bốn giờ chiều. Khá muộn rồi. Bướm Đêm 3 nói hắn chắc chắn rằng công nương Koh đã nhận tận tay bức thư. Bà ta đã gửi trả lại số lông chim cùng một món quà trị giá gần tương đương để chúng tôi không cảm thấy bị xúc phạm. Những người gác cửa của bà ta trả lời rằng tất cả những đứa con của Nhện Dệt Cầu Vàng “đều đang bận nuôi Người Nuốt ánh Sáng”, tức là họ đang nhịn ăn trước ngày nhật thực.
Cá Sấu 12 thường tự ra mệnh lệnh, nhưng lần này, ông ta hỏi tôi xem tôi muốn làm thế nào.
Tôi đáp rằng chúng tôi sẽ vẫn đến đó.
- Chúng ta sẽ gửi một món quà cảnh báo có giá trị tương đương, - tôi nói,- tương đương, hoặc lớn hơn.
Chúng tôi sẽ phải lên đường gấp. Tôi phái Hun Xoc đi lấy một vài thứ trong gói đồ quý nhất.
- Ở đó đông lắm, - Bướm Đêm 3 thông báo. Hắn bảo chúng tôi rằng nếu muốn đến đó, chúng tôi nên đi theo hướng nam, bám càng sát trục đường chính càng tốt. Họ đang dẹp bọn tiện dân ra khỏi khu teocalli cho nên ở đó vắng vẻ hơn. Nhưng hình như những người thuộc giới quý tộc được phép ở đó, chí ít cho tới khi mặt trời lặn. Cá Sấu 12 khen hắn làm rất tốt. Hun Xoc quay lại với một ôm đầy quà cáp.
Tôi chọn lấy hai món. Món thứ nhất là một chiếc mũ lông vẹt đuôi dài màu xanh lá cây. Nó trị giá gần hai trăm mười tên nô lệ trẻ, tức là bằng cả số tiền tiêu cho phần còn lại của cuộc hành trình này. Chậc, nếu Sọ Đá Quý 2 có mang công mắc nợ vì nó thì đấy cũng chỉ là rắc rối nhỏ nhất của ông ta. Chúng tôi sẽ biếu nó cho Hội đồng Rắn Chuông Sao chứ không phải công nương Koh, họ sẽ phải nhận và đốt nó trên ban thờ. Điều đó sẽ buộc bà ta phải đích thân cảm ơn chúng tôi. Món thứ hai là một chiếc bình nhỏ màu trắng đựng đầy một thứ nhìn như những chiếc lá khô nhỏ xíu, chỉ bằng con tem Jefferson năm xu số bảy mươi sáu. Chúng rất cân đối với đường viền hình răng cưa, màu hồng tươi điểm những vệt đen lộn xộn như mặt nạ của Rorschach (nhân vật chính trong loạt truyện Watchmen, luôn đeo tấm mặt nạ trắng với những vết đen loang lổ). Đó là da sấy khô của một giống ếch phi tiêu đỏ có độc trong rừng sương mù ở Ix. Chúng báo hiệu sự nguy hiểm, cụ thể là thông điệp cảnh báo: “hãy cẩn thận, chuẩn bị sẵn phi tiêu đi”.
Tôi hỏi Cá Sấu 12 rằng liệu những miếng da này có thể hiện sự thù địch không. Ông đáp rằng không. Những món quà này đều có ý nghĩa tương đối nhất định, và một chiến binh già như ông ta thì chưa có món nào là chưa từng thấy. Chúng tôi đậy cái bình lại. Nó là một chiếc bình mới với hình chạm khắc nhìn nghiêng của hai vị tổ tiên chung của Sọ Đá Quý 2 và Koh, với ẩn ý rằng chúng tôi đang nhắc nhở Koh về nghĩa vụ của bà ta đối với dòng tộc.
- Tôi muốn thêm vào một đoạn cuối, - tôi nói.
Cá Sấu 12 nhìn tôi. Tôi giải thích rằng tình thế này đủ nghiêm trọng để chúng tôi tiết lộ một chút bí mật.
Tôi đọc:
“4 Ahau: ajitonxa pochtal Tamoan …
Vào b’ak’tun thứ mười, k’atun thứ tư, tun thứ mười sáu, unial thứ không [tức tháng 8 năm 530 Công nguyên], Lươn Trắng [tức sao chổi Halley] cháy trên đầu chúng ta.
B’ak’tun thứ mười, k’atun thứ tám, tun mười ba, unial mười một [tức tháng 2 năm 674 Công nguyên], Lươn Trắng lại cháy trên đầu chúng ta.
B’ak’tun thứ mười, k’atun thứ mười hai, tun mười một, unial thứ ba [tức tháng 4 năm 684 Công nguyên], Lươn Trắng lại cháy trên đầu chúng ta.
Trước unial thứ mười bốn của tun thứ mười chín, k’atun mười hai, b’ak’tun thứ mười [tức một thời điểm nào đó trước tháng 1 năm 692 Công nguyên]. Teotihucán sụp đổ, hoang phế.
Hết.
Những ngày tháng trên đều không được nhắc đến trong cuốn Thư tịch Nurnberg hay trong bất cứ bản ghi chép cờ hiến tế nào khác mà tôi biết qua Sọ Đá Quý 2, nhưng chúng đều là những sự kiện xảy ra thật. Sọ Đá Quý 2 cũng đã cho tôi biết rằng ở đây mọi người đều biết sao chổi Harley, hiển nhiên thôi, nhưng chưa ai đoán được chính xác những lần xuất hiện của nó, kể cả dùng cờ Hiến tế hay bất cứ cách nào khác. Tôi nói với ông ta rằng điều đó cũng chẳng có gì là lạ vì chu kỳ xuất hiện của nó rất không đều. Thậm chí phải dùng đến nhiều thiết bị hiện đại mới có thể dự báo được trước hai năm, và chỉ đến những năm 1960 người ta mới bắt đầu nắm bắt được nó. Koh hẳn sẽ rất tò mò. Phải vậy không?
Tôi bắt Bướm Đêm nhắc lại. Hắn đọc chính xác ngay từ lần đầu. Chúng tôi sai hắn đi.
- Chúng ta sẽ không chờ hồi âm, - tôi đáp, - tôi sẽ cho bà ta bốn ngàn nhịp (một cách nói ám chỉ khoảng một giờ đồng hồ) và sau đó chúng ta sẽ đứng ngay trước cửa.
Cá Sấu 12 có vẻ hơi ngờ vực điều này, nhưng đó là việc riêng của tôi nên ông ta không nói gì.
Hun Xoc, Ngọc Giá Trái – con trai 14 – và tôi đi qua một lối sân trống. Các vị khách khứa của gia đình 14 đã thu dọn chỗ nằm nghỉ trên mái nhà, chúng tôi bước qua người họ, leo xuống một con hẻm nhỏ ở phía bắc và nhằm thẳng hướng đông tới trục đường chính.
- Chúng ta nên im lặng, - Hun Xoc nói. Nó không muốn bất cứ ai nghe thấy chúng tôi nói tiếng Ix. Tôi nhất quyết đòi đeo mặt nạ thay vì khuyên mũi, cái thứ khiến tôi phát rồ lên – không có gì tệ hại bằng những cơn đau nhói. Chúng tôi khoác lên người những tấm áo choàng theo kiểu địa phương với họa tiết hình bọ cạp đỏ và xám có đính hạt, điều đó có nghĩa là chúng tôi dẹp nghĩa vụ đối với thị tộc sang một bên và chỉ đơn giản đi cúng cầu mưa cho cả thành phố. Như vậy, không ai có thể nhận ra chúng tôi thuộc gia tộc nào. Thế nhưng, chúng tôi vẫn chưa bắt chước được đúng điệu bộ của người Teotihuacán. Việc này có thể dẫn đến rắc rối không nhỏ nếu chúng tôi bị bắt giữ. Tôi nhìn quanh. Có vẻ như chúng tôi đã qua mặt được bọn do thám, nếu có thể gọi là do thám, vì chúng chẳng hề kín đáo chút nào. Tôi nghĩ cảnh này cũng giống ở nước Nga Xô-viết cũ vào những thập kỷ cuối cùng, khi ai cũng biết mặt tất cả, hoặc phần lớn, những kẻ theo dõi. Có lẽ chúng bị quá tải vì những đám đông không ngừng đổ về thành phố. Sự lộn xộn sẽ có lợi cho chúng tôi. Nhưng dù sao chúng tôi cũng có làm chuyện gì phản loạn đâu, phải vậy không? Ý tôi là chưa thôi.
Chúng tôi rẽ phải, vào một ngõ hẹp tối âm âm như những lối đi dạo giữa hai hàng cây ở Trung Đông. Nó rộng chừng năm sải tay và gần như song song với trục đường chính, cách một khu nhà, vì vậy, về mặt không gian, chúng tôi như đang đi trên đại lộ Madison (Madison: một đại lộ ở thành phố New York, Mỹ) (chỉ có điều hẹp hơn rất nhiều) và cứ đến mỗi ngã rẽ lại nhìn thấy công viên Trung tâm. Chúng tôi đang đi theo đường khác với đường Bướm Đêm đã đi. Lúc này chắc hắn cũng vừa đến nơi. Cứ cho bà ta chút thời gian nghe hắn trình bày đã. Nghe và khóc thét lên. Tôi nhìn thấy một con rắn nước lớn đang phơi nắng trên một bờ tường thấp. Dân tình ở đây khá kỹ tính về việc không làm phiền những con rắn có vảy, cũng như ở Ấn Độ người ta không làm phiền khỉ nuôi trong đền hay những con quạ thiêng. Có cái lợi là ít chuột bọ và lắm người chết vì rắn cắn, điều thứ hai được coi là có lợi vì người ta thổi phồng lên rằng như vậy là Rắn Chuông Sao đã gửi một đứa con của ngài đến để đưa uay của anh lên tầng trời thứ mười ba.
Đi thêm hai “tòa nhà” về hướng nam, chúng tôi đã vượt qua một đường ranh giới vô hình để vào khu người Teotihucán bản xứ. Khu bắc – tây bắc mà chúng tôi vừa rời khỏi là nơi đặt những trú quân giàu có nhất của người Maya, nhưng những ngôi nhà vẫn nhỏ hơn, cũ kỹ hơn và có cái không khí đặc trưng Maya. Theo tôi nó giống khu vực giành cho cộng đồng chiếm thiểu số mà bất cứ thành phố nào cũng có. Ta hãy tiếp tục so sánh với thành phố New York, nó giống như đi dọc phố Mulberry và qua khu ranh giới với khu Trung – Ý bên bờ kênh. Một tốp ba gã Quá-Cao bộ dạng lồng ngồng; từ trong một đường ngách có mái che ló đầu ra, chúng đang bước vào nơi không được phép. Hun Xoc vội lao vào chắn giữa chúng và tôi. Tôi nhìn nó qua tấm mặt nạ, tỏ ý cảm ơn.
Không có gì, - ánh mắt Hun Xoc trả lời.
Cậu biết đấy, - tôi tiếp tục ra hiệu, - tôi không tin gã Ngọc Giá Trái này.
Đừng lo, - Hun Xoc đáp, - chúng ta sẽ không cho hắn biết điều gì hết. Và tôi sẽ canh chừng hắn như thằng trộm.
Đến quãng này, nhà cửa mỗi lúc một mới và to hơn. Tối thiểu là hai tầng, phần dưới xây bằng đá trát thạch cao, phần trên là gỗ ván, cũng trát thạch cao. Các thương lái và người hành hương, luôn đi thành từng tốp ba người hoặc hơn, ngang qua chúng tôi, ra dấu chào hỏi lặng lẽ. Tất cả đều có bộ dạng len lén như thể ai cũng có một cuộc hẹn kín như chúng tôi. Chúng tôi đi qua một toán phu hót phân, họ cúi gập mình kính cẩn quanh chúng tôi, trên lưng là những cái vại lớn bốc mùi kinh tởm. Từng tốp năm tên lính của nhà Báo Sư Tử đi nghênh ngang giữa đường giữa lối. Chắc chúng muốn bắt bớ hoặc thậm chí xô vào nhà người ta để tịch thu bất cứ thứ đồ đạc nào có thể coi là phô trương.
Thành phố này có cái không khí im ắng kỳ lạ. Ở các thành phố Maya, luôn có tiếng người hát hò, còn ở đây, tôi đoán các bài hát chỉ được cất lên vào những dịp nhất định. Vì thế, anh có thể nghe thấy cả tiếng bước chân nện xuống, tiếng chim chóc, đôi khi cả tiếng đá lửa cành cạch và tiếng rền rĩ của cưa đá xẻ vào gỗ, nhưng ngoài ra chẳng còn mấy tiếng động gì khác; những bức tường đá dày tạo thành tiếng dội khiến mọi tiếng động hòa vào nhau thành một thứ âm thanh nghe lóc bóc như có nước. Xem ra đến một nửa số người đi trên đường đều đeo khuyên mũi, nửa còn lại, có lẽ thuộc tuýp truyền thống hơn, thì đeo mặt nạ hoặc che mạng. Như nhau cả, - tôi nghĩ bụng. Tôi bắt đầu thấy có cảm giác mệt mỏi vì phải nhìn quá nhiều bộ mặt. Chúng dần trở nên giống hệt như nhau và chẳng còn gì là thú vị nữa. Mặt nạ nào cũng như mặt nạ nào, làm từ thạch cao hoặc một loại bột giấy bằng ngô nào đó của địa phương, trơn chuội, dửng dưng, trắng đục, điểm cặp mắt hình hạnh nhân, với tất cả sự vô hồn của một khuôn mặt không biểu lộ tình cảm, không tuổi tác, không giới tính, không sắc tộc, không sống cũng không chết. Cho nên, với tất cả những tấm mặt nạ, áo choàng dài, sự yên ắng và không cây không cỏ này, thứ tự nhiên duy nhất mà anh có thể nhìn thấy từ mặt đường là bầu trời đang đổi màu trên đầu anh và thi thoảng một chiếc cầu nhỏ bắc qua con rạch.
Khi đến mé nam kim tự tháp Bão Lốc, chúng tôi rẽ trái, hướng về trục đường chính. Năm tên lính nhà Báo Sư Tử thảnh thơi đứng gác, Ngọc Giá Trái trao đổi với chúng bằng tiếng Teotihuacán đều đều không ngữ điệu. Chúng nhận ra hắn và để chúng tôi đi qua.
Đám đàn bà con gái đi đâu hết nhỉ? – tôi thắc mắc. Dĩ nhiên, đây là khu vực hành lễ nên nó bị cách ly. Nhưng ngay cả trên các con phố nhỏ bên cạnh cũng khó lòng thấy bóng dáng phụ nữ, cả con nít cũng không nhiều. Hệt như một thành phố đạo hồi, nơi phụ nữ quý tộc được coi là quá cao quý để được ra khỏi nhà. Hoặc ít ra cũng là cách họ tự giải thích về sự tù túng của mình. Cái thành phố này làm mình phát khó chịu, - tôi nghĩ bụng, - không, không đời nào mình muốn sống ở đây.
Nơi này đồ sộ thật, nhưng vẫn không giống cái mà người ở thế kỷ 21 coi là thành phố. Nó giống nhiều ngôi làng tập hợp lại hơn. Anh có thể sống ở đây cả đời mà chẳng bao giờ bước chân sang khu nằm sát bên cạnh. Mà nếu anh làm thế thì chẳng khác nào tự tiện bước vào phòng khách của một ngôi nhà không quen biết. Và nếu anh cứ nhất quyết làm thế, anh sẽ phải bỏ ra ít thì giờ để chuyện trò với bất cứ người nào mà anh tình cờ gặp đầu tiên, rằng anh là họ hàng nhà ai, nghe xem họ hàng nhà anh ta là ai, và nếu các anh không thể moi ra được một người họ hàng chung nào thì anh ta sẽ tẩn cho anh một trận. Mà thực ra người ta cũng chẳng có lý do gì để ra khỏi khu vực sinh sống của mình. Làm gì có nhà hàng ăn – khái niệm này còn chưa xuất hiện – cũng không có cửa hàng mà chỉ có những bãi chợ. Không rạp hát, trừ khi anh tính những buổi trình diễn có tính chất tôn giáo trên một vài quảng trường mà chỉ những người quen biết mới được vào xem. Không có bất cứ trò giải trí nào, trừ khi anh tính việc đến nhà họ hàng chơi và nghe hát hỏng trong sân nhà anh ta, ừ, cái đó tính thì cũng được thôi. Nhưng chắc các bạn cũng hiểu ý tôi muốn nói gì rồi. Họ chẳng có chuyện đi ra ngoài đơn giản chỉ để xem một buổi trình diễn. Nói đúng ra, họ chẳng bao giờ đi ra ngoài. Họ không ra ngoài đi dạo. Họ không đi ra ngoại ô hít thở khí trời trong lành vào dịp cuối tuần. Họ không đưa trẻ con đến trường. Mà cũng chẳng phải vì họ bận lao động cả ngày. Tôi thấy họ toàn lo những chuyện nghĩa vụ với gia đình, với dòng tộc, với thị tộc, với một nửa xã hội mà họ thuộc về, với hàng đống các vị thần bảo trợ, với người sống, với người chưa được sinh ra và đặc biệt là với những người đã chết. Họ làm những việc mà chúng ta, tức là người ở thế kỷ 21 chúng ta, gọi là lễ lạt. Thế nhưng, đối với họ, đấy lại là những việc có ý nghĩa thực tế. Vấn đề nằm ở chỗ thành phố này chẳng có chút không khí giải trí vui vẻ nào, nó nghiêm cẩn và sùng tín hệt như Jerusalem. Cũng có thể đó chỉ là không khí mộ đạo được lan truyền khắp nơi bởi những người hành hương. Và cũng như Jerusalem, nó quá đỗi đông đúc và cáu bẳn. Anh có thể khẳng định rằng ở đây có nhiều hệ thống tín ngưỡng xung khắc nhau.Và anh gần như có thể cảm nhận được - nếu không sợ mình đang suy diễn - rằng cũng như những thành phố khổng lồ khác, thành phố này đơn giản là đã tồn tại quá lâu và đang thối rữa ra từ bên trong. Tôi ở Ix chưa được bao lâu, vậy mà cũng cảm thấy nhớ nó. Mặc dù rất tôn ti trật tự nhưng các thành phố Maya luôn có không khí hội hè và đến chỗ nào anh cũng có thể nghe tiếng ai đó đang cười. Còn cái chỗ này thật khắc khổ, bất chấp đủ thứ chim chóc, hoa hoét và kim tự tháp.
Chúng tôi chen lấn ra được đến giữa quảng trường.Trong một giây, tôi thoáng cảm thấy một trường lực phát ra từ kim tự tháo Phù Thủy xuyên qua mình, tôi đứng sững lại như bị chóng mặt. Hun Xoc khẽ đập vào người tôi và tôi theo thằng bé đi về hướng nam. Đám đông dày đặc nhưng không tắc lại một chỗ. Đường có bậc thang như thường lệ. Chúng làm tôi không hết hơi nữa – tôi đã qua giai đoạn ấy rồi – nhưng cứ leo lên leo xuống mãi cũng gây mụ mẫm đầu óc. Những dải màu tối và sáng trên các bức tường và vỉa hè tạo ra một thứ ảo giác như nghệ thuật ảo thị, vì thế, anh chẳng còn phân biệt được chỗ nào cao, chỗ nào thấp, các bức tường gần hay xa hay bậc tiếp theo ở chỗ nào. Giống như nếu anh sơn những đường ngang lên cầu thang, người đi xuống sẽ bước hụt và lộn cổ. Marena chắc sẽ thích lắm đây, - tôi nghĩ, - phải kể cho cô ta biết mới được.
Coi chừng nhé, - Hun Xoc ra hiệu cho tôi. Tôi sải bước gấp gáp lộ liễu, phía trước lại có lính của nhà Báo Sư Tử đi tới và nó muốn tránh xa chúng. Chúng tôi rẽ sang tay trái, vào một cái chợ trời bán đồ thờ - tôi nghĩ dùng từ này là chính xác bởi nó được dựng lên để mua bán các loại tượng thờ, thuốc thang, nô lệ, dao, bùa ngải, đại loại là những thứ mà hồn vía có ít nhiều quyền năng. Nhưng chúng tôi chẳng có thời gian đâu mà sắm sửa. Chúng tôi rẽ trái, thẳng hướng Ciudadela, sân đền của Rắn Chuông.
Nó vừa uy nghi lại vừa cởi mở, lớn hơn và hoàn thiện hơn bất cứ quảng trường nào khác, được tôn nền cao hơn mặt bằng chung của thành phố, với mười hai bục lớn và ba phía đều có những cầu thang rộng cao ba mươi mốt bậc. Chả thế mà người Tây Ban Nha tưởng nó là một pháo đài. Ở góc phía đông, một phần ba đỉnh trên của kim tự tháp Rắn Chuông nhô lên sau một bức tường cao chướng mắt. Hình như hai Giáo hội lớn đã đe dọa tăng sưu thuế đối với Rắn Chuông Sao nếu họ không xây cái chướng ngại vật ấy. Chắc họ nghĩ nếu làm nó bớt đường bệ đi thì sẽ ít người cải sang đạo này hơn. Thế nhưng tác dụng nếu có thì chỉ là ngược lại. Nó đông nghìn nghịt và hiển nhiên là đền thờ được nhiều người lui tới nhất thành phố. Chúng tôi len qua, đổi hướng nam sang đông nam, đến một nơi mà người ta chỉ thấy những mái nhà lỗ chỗ châu mai của kho chứa đồ thờ ở góc nam kim tượng tháp. Một trong số đó là nơi ở của Nhện Dệt Cầu Vàng. Đám đông đầu tiên chúng tôi đi ngang qua lại là một toán hai mươi tên lính của nhà Báo Sư Tử. Xem ra chúng đứng đông hơn ở khu vực này để canh chừng các Rắn Chuông. Tiếp đến là là một lô các bà già. Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy phụ nữ ngoài đường mà không có đàn ông bên cạnh. Không như các quảng trường ở phía bắc, sân đền này có cái không khí hỗn tạp, tức là có rất nhiều kẻ rách rưới. Bị Thương 14 nói rằng những đứa con của Lươn Giời quản lý mọi công việc cứu tế lẫn xét xử ở đây, song nó vẫn giống một quảng trường công cộng hơn một không gian tôn giáo. Không có quầy hàng, cũng không ai trao tay nhau hàng họ gì, nhưng chẳng cần bảo ai, tôi cũng biết đang diễn ra rất nhiều vụ làm ăn buôn bán: bọn cò mồi đổi chác đang thỏa thuận với nhau, những tay kế toán với bàn tính trong tay kiểm tra lại các phép cộng, một gã đặt cá cược thuê đang đặt cược. Các thành phố thời xưa luôn tận dụng không gian công cộng. Để buôn bán mà không có tiền hay điện thoại thì anh nhất định cần đến một nơi tụ tập, cần đến quảng trường và bãi chợ. Chúng tôi đi ngang qua một đám thanh niên chơi taxac, một trò chơi đọc miệng phức tạp, và kak, một trò chơi bằng tay. Tôi nhận ra vỉa hè dưới chân mình đã chuyển sang màu đen, và khi chúng tôi đi ngang qua bàn thờ lớn ở chính giữa, nó lại chuyển thành màu vàng, rồi đỏ. Nó được sắp đặt theo hình bàn cờ Hiến tế với màu sắc rất tươi sáng, một loại thuốc nhuộm nào đó – tôi đoán thế - được tưới lên nền đá vôi. Chúng tôi gặp hai thầy bói Rắn Chuông đội mũ màu xanh da trời đang lượn quanh đám đông và trả lời các câu hỏi. Tinh thần truyền giáo đây mà, - tôi nghĩ. Chúng tôi đi vòng qua những tốp người quỳ dưới các chảo lửa, dâng cúng cho Rắn Chuông, hoặc qua Rắn Chuông gửi đến cho những người thân đã khuất, các vị tổ tiên còn hoặc không còn tên tuổi. Tôi thấy đa phần những người từ nơi khác đến đều có vẻ là trưởng làng. Mỗi người thay mặt ột vài trăm nông dân ở những đâu thì có trời mà biết. Ngọc Giá Trái nói trận hạn hán vừa rồi đã đưa người lên với Lươn Giời, tức Rắn Chuông Sao, nhiều chưa từng thấy. Hắn nói thêm rằng hai giáo hội Kền Kền và Bướm Đuôi Nhạn đều có những người đếm mặt trời riêng, nhưng người của Hội Rắn Chuông Sao vẫn được coi là giỏi nhất. 14 từng giải thích nguyên do là vì họ biết viết và đã tích lũy được cả một thư viện lưu giữ những ngón nghề tinh túy nhất, nó quá đồ sộ để một người, thậm chí một nhóm người có thể ghi nhớ hết. Một vài trong số họ là người Maya di cư đến, giống như công nương Koh, vì vậy, họ đã duy trì tốt cái ốc đảo cô lập của sự biết đọc biết viết này. Nghe đâu chính nhờ cách dùng nhiều thứ tiếng trong các buổi lễ của mình, Koh đã thu hút được những người từ xa đến như tộc người Quá-Cao chẳng hạn. Rắn Chuông không kỹ tính, Ngọc Giá Trái nói, và họ không đòi hỏi lễ vật sang trọng, chỉ cần bạc hà, khói thuốc lá, âm nhạc và một vài lọn tóc của anh là đủ.
Tiếng trống nổi lên. Đám đông di chuyển chậm dần rồi dừng lại.
Tiếng vọng của những hồi trống dội lại từ khắp nơi trong thành phố, và anh có thể nghe thấy nó lan tiếp vào tận trong núi và xa hơn nữa. Nhịp trống này chúng tôi chưa từng được nghe, nó vang lên năm hồi một, báo hiệu điềm xấu sắp tới.
- Họ nói đường vào thành phố đang được đóng lại, - Ngọc Giá Trái thông báo, - sớm hai ngày.
Vậy là thành phố đã bị phong tỏa cho lễ vọng, chẳng ai ra vào nữa.
Mẹ kiếp, - tôi rủa thầm. Tôi nhìn sang Hun Xoc. Thôi, chúng ta kẹt lại đây rồi, - ánh mắt nó trả lời, - phải cố làm cho thật tốt thôi.
Xem tiếp: Chương 25 - Part 02