Mật Mã Maya Chương 11 - Part 03
Chương trước: Chương 11 - Part 02
Chương 11
Chúng tôi đang ở tại một khu vực khảo cổ nhỏ gọi là Pusilha, cách Stake hai mươi nhăm dặm về phía nam. Có lẽ nó từng là một đô thị quan trọng vào cuối thời Cổ Maya, nhưng ngày nay thì chẳng còn vẻ gì là thế cả. Chúng tôi đang ngồi trên tấm vải dầu trong một căn lều mái tôn do một nhóm khảo cổ nào đó cất từ vài năm trước. À, chúng tôi ở đây tức là năm mojado - những kẻ di cư bất hợp pháp - cộng thêm AnaVergara, cô ả có dáng dấp như lính Mũ Nồi Xanh đã đón chúng tôi ở Florida Keys, và cấp phó của cô ta, một gã nhìn như nhân vật Commando trong phim hoạt hình tên là… ấy, khoan đã. Có lẽ ta nên tuân thủ luật không nhắc đi nhắc lại đến sốt ruột những cái tên ít dính dáng đến tội lỗi của chúng ta. Chúng tôi đợi trời tối. Trong này có hai chiếc bàn, một đống khung màn hình cũ cùng rất nhiều chổi và bút lông. Michael duỗi cái đống thịt đồ sộ của mình ra trên tấm vải dầu, có vẻ như định làm một giấc. Hitch ngồi kiểm tra các dụng cụ. Marena tán gẫu với Ana. Tiếng máy bay trực thăng ù ù trên đầu chúng tôi, phặc phặc phặc phặc phặc, chạy từ bắc xuống nam, dọc theo đường biên giới. Ana đã đưa tôi một chiếc phong bì nhựa đựng đầy cái mà cô ta gọi là các “em bé câm” của tôi. Tôi xem qua chúng dưới ánh sáng của chiếc điện thoại cầm tay. Có một tấm hộ chiếu công dân Mỹ cũ mềm và một chiếc ví cũ căng phồng một cách đáng mừng. Tấm hộ chiếu là đồ thật, không sửa chữa gì, thuộc về một ông Martin Cruz nào đó - một phóng viên du lịch - hiện đã biến khỏi Guate City. Tôi đã phải bỏ ra nửa ngày để học thuộc tiểu sử và ghi nhớ các bài viết tạp nham của ông ta. Tôi giở chiếc ví ra. Nó đựng hai chiếc thẻ cào ghi nợ trị giá năm nghìn đô, một chiếc thẻ American Express Thulium, một bằng lái xe cấp tại bang Sunshine (Tên lóng của bang Florida) mang tên Martin Martín Cruz, nhưng lại dán ảnh căn cước của tôi, một ngàn một trăm năm mươi nhăm đô la tiền mặt, gồm các đồng năm và hai mươi, hai ngàn bốn trăm đồng quetzale Guatemala - tương đương khoảng hai trăm đô la Mỹ, và tôi không hiểu sao người ta lại lấy tên một loài chim quý như thế để đặt cho cái đồng tiền vô giá trị này – ngoài ra còn vài thứ tạp nham bỏ túi có căn cước của Martin Cruz, hoá đơn, biên lai taxi, thậm chí cả vài cuộn vải băng vết thương nữa. Và cuối cùng là một thẻ nhà báo quốc tế của tạp chí National Geographic, ái dà, tôi nghĩ, - tôi nghĩ.
- Này, Marena? - Tôi gọi.
- Ừ? - cô ta lê gối sang và lại ngồi khoanh chân lại.
- Ờ, chắc cô cũng biết nhỉ, National Geographic là tấm bình phong của CIA.
- Ừ, vậy thì sao?
- Và tôi nhận được tấm thẻ nhà báo này từ họ.
- Đúng thế.
- Đôi lúc tôi cũng tự hỏi: chuyện gì đang diễn ra vậy?
- Ý anh là sao?
- Ý tôi là thực ra chúng ta đang làm việc cho ai?
- Chúng ta đang làm việc cho Lindsay, một mình ông ấy thôi.
- Đấy chỉ là đảm bảo của cá nhân cô thôi đúng không?
- Phải. Theo tôi biết là thế. - Một lát im lặng. - Anh nghe này, tôi chắc chắn ông ta đã nhờ đến sự hỗ trợ của Bộ Ngoại giao trong vụ này, nhưng, phải, tôi có thể đảm bảo cái tổ chức ma quỷ kia không hề biết gì về chuyện này đâu. Anh nghĩ mà xem. Nếu một gã tai to mặt lớn nào đó ở Washington biết được việc chúng ta đang làm thì họ đã đánh sập nó rồi.
- Tôi không biết nữa, - tôi đáp, - nhưng thời buổi này người ta làm nhiều trò khác thường lắm.
- Việc này nằm quá tầm với của bất kỳ cơ quan chính phủ nào.
- Tôi chỉ thực sự, thực sự dị ứng với bọn đặc vụ kia, ý tôi là, cô cũng biết những chuyện từng xảy ra rồi đấy, chúng thực sự là những tên sát nhân…
- Tốt thôi, - cô ta nói, - mẹ kiếp, vậy thì bỏ cuộc đi. Cứ việc nuốt lời.
- Tôi không định bỏ cuộc. Tôi chỉ muốn biết cô có chắc chắn, cô biết đấy…
- Tôi chẳng biết chắc chắn bất cứ chuyện gì hết, trừ việc người ta không thể tiên đoán tất cả mọi điều. Dù gì chăng nữa, cái thẻ đó chỉ đề phòng khi chúng ta bị tóm, và đằng nào chuyện ấy cũng chẳng xảy ra đâu.
- Không Đời Nào sẽ lồng lên bỏ chạy nếu cậu ấy nhìn thấy nó.
- Ừ, thì đó là… anh biết mà, đấy là bạn anh, có phải bạn tôi đâu, tôi biết gì để nói với anh bây giờ?
- Được rồi, không sao. Cô đừng bận tâm.
- Ừ.
- Chỉ có điều, ta đừng nhắc đến National Geographic khi có mặt Không Đời Nào nhé?
- Tôi sẽ nhân danh cá nhân đề nghị mọi người không bao giờ nhắc đến cái tên ấy.
- Cảm ơn.
Chúng tôi ngồi yên. Có lẽ cô ta nói đúng, tôi tự nhủ. Có lẽ họ biết việc mình làm. Tôi tìm kiếm thông tin về Executive Solutions - càng nhiều càng tốt - và hình như đó là một tập đoàn được thành lập tại Nam Phi, nhưng trong thời gian gần đây hoạt động chủ yếu ở châu Mỹ La tinh, chuyên bảo vệ các dàn khoan dầu và những việc đại loại như vậy, ngoài ra, theo tôi đoán, họ còn hỗ trợ khắc phục sự cố cho các tổ chức chống ma tuý. Và họ dường như hướng tới đối tượng khách hàng xa xỉ. Có khi Cruz cũng vài lần viết bài cho National Geographic thật, mặc dù tôi không đọc thấy thông tin đó trong hồ sơ của ông ta. Dù sao thì đa phần những người làm việc cho tạp chí này đều là phóng viên thực thụ. Phải vậy không nhỉ? Và dù sao, giấy tờ tùy thân của tôi cũng chẳng phải chuyện hệ trọng đến mức ấy. Michael Weiner thì có cả một gia tài. Họ đã cho tôi xem danh mục giấy tờ mà ông ta mang theo. Đủ loại giấy phép và thư giới thiệu của các quan chức Guatemala, trong đó có cả Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Tôi đoán một số là được mua và một số khác là giả. ES (Executive Solutions) dự định giao ột nhóm vỏn vẹn bốn người phụ trách việc đón chúng tôi ở bên kia biên giới. Sau đó, chỉ để đề phòng thôi, chúng tôi sẽ trà trộn vào một lễ hội ở San Cristóbal Verapaz. Các nhân viên theo dõi của ES sẽ có mặt ở đó để quan sát xem có ai bám theo chúng tôi hay không. Chúng tôi sẽ đứng lại vài phút trên quảng trường, nơi đông người nhất, rồi đi bộ ra ngoài thành phố theo hướng gần như ngược lại hướng chúng tôi đã đến. Khi đã ra đến ngoài, chúng tôi và bốn người kia, cộng thêm sáu nhân viên theo dõi vòng ngoài sẽ gặp nhau trong một lùm cây. Vậy là có ít nhất mười chín người tham gia vào công đoạn này, tôi tính. Nhưng đó chỉ là những người mà tôi biết thôi. À, thêm cả Không Đời Nào, anh bạn đồng hương tham gia tổ chức Enero 31 của tôi nữa. Tôi nghĩ là đã kể với các bạn rồi. Đó là người không được dự tính trước. Cậu ta sẽ gặp chúng tôi tối nay và sẽ ở cạnh tôi trong suốt thời gian chúng tôi ở đây, như một kiểu vệ sĩ riêng vậy. Tôi đã nhất quyết đòi hỏi như thế. Vậy là hai mươi người. Không giống lắm một chiến dịch bộ khung. (Tức là chiến dịch trong đó số người tham gia được hạn chế đến mức tối thiểu).
Ừ thôi. Calmate que te calmo (Cứ bình tĩnh – tiếng Tây Ban Nha), tôi tự nhủ. Tạm thời cứ theo lao đã. Hãy chấp nhận sức mạnh của con sóng.
- Xin lỗi về chuyện vừa rồi, - tôi nói.
- Không sao , - Marena đáp. Cô ta quay về chỗ cũ. Mẹ kiếp.
Tôi đã ở lại Stake suốt từ sau cuộc thử nghiệm Saint để tập huấn cho cái mà họ gọi là Dự án Chocula, còn Marena thì vừa quay về sau ba ngày nghỉ với Max ở Colorado và nom có vẻ tươi tỉnh ra. Cô ta mặc một chiếc áo gi-lê kiểu Jane Rừng Xanh và các phụ kiện đồng bộ khiến người ta bất giác nghĩ tới việc canh giữ căn nhà trên cây với voi và báo đốm.
Chúng tôi ngồi nghe tiếng dế kêu. Rất êm tai nhưng dường như có cái gì thiêu thiếu, khác với âm vực thông thường. Marena thở dài. Có nên chìa tay ra vỗ về cô ta ko nhỉ? Không, đừng. Cô ta sẽ nổi đóa lên với mày đấy. Cứ để cô ta thể hiện trước. Mà nếu cô ta không làm thế thì đằng nào cũng chẳng hi vọng gì.
- Nào, lên đường thôi, - Ana nói. - Mọi người cùng kiểm tra thiết bị liên lạc đi.
Chúng tôi gắn thiết bị vào tai. Hệ thống này có lẽ rất đắt tiền và nó có khả năng ẩn các tín hiệu truyền đi. Nghĩa là, nếu có ai đó bắt trộm tín hiệu đàm thoại của chúng tôi, họ sẽ chỉ nghe thấy những âm thanh nhăng nhít. Chỉ những người nghe nào có bản sao con chip chuyên dụng của chúng tôi mới có thể nghe được cuộc đàm thoại thực sự.
- …nghe thấy tôi không? - tiếng của Ana Vergara vọng qua tai nghe.
- Asuka ở đây, nghe thấy, - Marena trả lời.
- Pen-Pen ở đây, nghe rất rõ, - tôi trả lời. Michael và Hitch cũng trả lời rằng họ đang ở đây. Giời đất ạ, bí danh để làm gì cơ chứ. Đúng là trò trẻ con. Những người này đang làm như thể họ chuẩn bị khử Castro không bằng.
Chúng tôi rời căn lều và cuốc bộ một dặm theo hướng tây về phía sông Moho. Ana dẫn đầu, tôi đi thứ hai. Ánh trăng chỉ còn đủ để nhìn thấy đường nếu không đeo kính bảo vệ. Các gốc rạ và thân cây ngô nhường chỗ cho những cây tuyết tùng lùm xùm. Tôi bắt đầu thấy cái cảm giác thú vị khi đi bộ ban đêm và không phải đi một mình. Ngay cả khi tình hình có đôi chút căng thẳng, như lúc này chẳng hạn, thì vẫn có điều gì đó rất khích lệ trong lòng. Con đường mòn hẹp dần lại cho đến khi chỉ còn bằng một lối qua lại của giống heo vòi. Vài lần, Ana quay lại nhìn tôi. Cuối cùng, cô ta dừng lại, quay ra sau, dậm chân và nhìn thẳng vào mặt tôi.
- Ngài Delanda, - cô ta nói, - vùng này không có mìn đâu.
Giọng cô ta nghe như thể cô ta sắp sửa thêm vào một câu đại loại như “đồ ẻo lả chết nhát ạ”. Nhưng cô ta nói cũng phải. Tôi cứ khom người nhìn xuống chân và đặt chân vào đúng vết chân cũ của cô ta.
- Được, được, tôi hiểu rồi, - tôi đáp, và nghĩ thầm tiếp trong đầu: - thưa chỉ huy.
Cô ta quay lại đằng trước và bước đểu. Tôi rảo bước theo. Đồ giời đánh.
Con đường chạy dốc xuống giữa các bụi tầm ma. Dưới chân chúng tôi, mặt đất chuyển sang bùn trộn lẫn thân cây sậy khô. Phía trước chúng tôi, Moho là một khoảng trống đem ngòm rộng chừng mười yard. Thực chất nó chỉ là một con suối, nhưng vào lúc này, nhờ nước lũ, nó đủ sức đưa tàu bè đi ngược dòng một quãng dài. Ana dẫn chúng tôi đi dọc bờ đến một chỗ có xoáy nước nằm ở nơi khuất gió của khúc sông cong. Tôi chỉ trông thấy một hình thù bè bè đang đứng ở dưới nước, ngập đến tận đầu gối, rồi đến một chiếc lancha (loại thuyền gỗ đáy phẳng) theo kiểu địa phương, nhìn giống như chiếc xuồng vịt cũ. Mũi thuyền ghếch lên bờ, có gắn một động cơ chân vịt không gây tiếng ồn, chạy bằng điện, hiệu Minn Kota. Sáu người chúng tôi leo lên. Tôi suýt thì dập mắt cá chân vì đá phải một cục ắc quy lớn mà họ xếp dưới đáy thuyền. Michael lên cuối cùng, chiếc thuyền chìm xuống và nghiêng ngả như thể lão ta sắp sửa nhấn chìm chúng tôi. Anh chàng to bè đẩy thuyền rời bờ rồi nhảy qua mạn. Anh ta đeo kính hồng ngoại nhìn trong bóng tối có gắn màn hình định vị, một thiết bị quân đội có khả năng báo cho anh biết anh đang ở đâu, chính xác đến từng nửa inch. Anh ta hạ chân vịt và cho thuyền chạy ngược dòng. Vượt qua đường biên giới tưởng tượng giữa hai nước. Có thể trước đây từng có một tấm lưới chắn ngang để đánh dấu, nhưng người ta đã làm thế nào đó đẩy được nó sang bên mà chuông báo động không kêu. Hẳn là họ có tay trong – tôi nghĩ bụng. Ý tôi là tay trong gài bên phía Guatemala. Mà thôi, đừng bận tâm chuyện ấy. Một con vượn hú lên trên dãy đồi ở mạn bắc. Cảm giác di chuyển êm như thế này trong bóng tối thật kỳ lạ. Thêm nhiều máy bay lượn qua trên đầu, nhưng không chiếc nào soi đèn và không chiếc nào bay đủ chậm để chứng tỏ là nó đang tìm chúng tôi. Thuyền dừng lại vài lần. Có thể ngửi thấy mùi bạch đậu khấu, người ta giồng chúng quanh đây. Ánh đèn thắp bằng khí đốt le lói trong đám sương mù phía trước mặt. Đó là ngôi làng có tên Balam.
Tai nghe của tôi có tín hiệu.
- Chú ý, đội A, - Ana nói vọng qua tai nghe, - điểm danh toàn bộ.
- Kuzo, có mặt. – Đó là giọng của Michael.
Tất cả chúng tôi cùng nói “có mặt”. Chiếc thuyền cập bờ gần một gốc cây gumbo – limbo hình thù lạ m
Xem tiếp: Chương 12 - Part 01